Bỏ qua Thủ đô Hoàng gia, Barbra là thành phố lớn nhất của Kranzel. Giống như Dharz, nơi này được vây lấy bởi biển, và vì lẽ đó mà trở thành trung tâm thương mại lớn.

Thành phố được trang hoàng mạnh tay tới mức văn phòng bảo an cũng có đến bốn tầng lầu. Salrut vẫn ở bên hoàng tử, có điều trong vai trò tù nhân, nhưng đám hải tặc? Ừ, tất cả số còn lại đang bị nhốt ở đấy. Tuy nhiên sẽ bị mang đi treo cổ vài ngày nữa. Chúng tôi không tự mình giết tên thuyền trưởng, nên về căn bản không hề phá giao ước với hắn. Chúng bị bắt vì là cướp biển vô luật lệ và phép tắc, không vì lý do nào khác nữa.

Cảng của Barbra có kích thước khổng lồ. Phải đến cả trăm con thuyền hiện đang đỗ ở đây, và chúng đến từ ít nhất hai mươi đất nước khác nhau. Nơi này quả là một nơi đáng để cất bước đi đến, khi bạn có thể an toàn bên trong và mua được bất cứ thứ gì mình muốn, miễn là có tiền.

| Tuyệt quá. |

| Gâu. |

| Wào, nhiều cửa hàng đến mức anh không biết nên bắt đầu từ đâu. |

Chạy dọc con đường từ cảng đi là hàng loạt các quầy cửa hàng với đủ loại hình hài, dáng cỡ.

Trong bán kính 200 mét, chúng tôi bắt gặp ba cửa hàng vũ khí, nhưng quả nhiên cặp đôi háu ăn đây bỏ qua chúng chỉ với một cái liếc. Thay vào đó, trên con phố kín mít người, cả hai hướng đôi mắt lấp lánh như trời sao đến vô số những nhà hàng xung quanh.

Hiện tại, tôi không nghĩ sẽ gặp vấn đề gì nếu dẫn hai đứa nó đi ăn bất cứ món nào cũng được đâu. Đằng nào chúng tôi cũng có kha khá tiền mà.

Và ước gì tôi biết quyết định mới nãy là sai lầm.

| Ngon quá. |

| Gâu! |

| Cái này cũng ngon. |

| Gâu gâu! |

| Nom nom nom. |

| Gâu. |

Theo tôi, cả hai dành nhiều thời gian để nhai hơn là để quả miệng mình nghỉ. Cả Fran lẫn Urushi giữ và ăn tất cả những gì có thể, và khỏi phải nói, cảnh tượng mà một bé gái cùng một con chó sói lớn giải quyết phần ăn này rồi đến phần ăn nọ không được bình thường cho lắm. Trên thực tế, chung quanh đã bắt đầu nhìn chằm chằm em ấy rồi. Họ còn tán dương Fran bằng một tràn vỗ tay khi con bé giải quyết nguyên một que xiên bự chỉ trong một cú đớp nữa chứ.

Mải ăn khiến chúng tôi đến được một quảng trường hình cầu với đường kính khoảng 500 mét.

Những tòa nhà bọc lấy nơi này đều khổng lồ; cũng như hết sức lộng lẫy. Tất cả đều phục vụ cho mục đích kiếm tiền cho chủ nhân mình. Nếu được phát biểu cảm nghĩ, thì nơi đây làm tôi ấn tượng chẳng thua kém gì so với phố Marunouchi hay Quảng trường Thời đại. Nhìn quảng trường đây kĩ càng hơn, tôi bỗng chú ý đến một nơi khá thú vị.

|| Đó có phải là...? ||

( Master? )

|| Có vẻ tòa nhà đằng kia là Hội Đầu Bếp. ||

Tôi không biết một nơi như vậy có tồn tại đó, vì vậy mà ánh mắt của tôi cứ dồn vào đấy trong thắc mắc. Tôi thật sự muốn vào đấy xem thử trong đó có gì.

| Anh vào không? |

|| Có chứ. ||

Xung quanh còn một số cái tên máu mặt như Hội Thợ Rèn hay Thương Hội. Có cả đại sứ quán nữa chứ. Gần như có một bộ luật vô hình rằng để có chân ở quảng trường này thì phải có một uy danh nhất định, Hội Đầu Bếp cũng không phải trường hợp ngoại lệ.

| Nơi này? |

|| Ừ, nhưng có vẻ họ không chào đón Urushi cho lắm. ||

Một bảng hiệu ghi rằng: ‘Cấm thú nuôi và quyến thuộc’ được treo trên cửa. Mà điều đó cũng dễ hiểu với một nơi đầy rẫy thức ăn như nơi đây.

( Vậy lẩn trốn trong bóng? )

|| Ừ, chắc sẽ được. Đừng rời khỏi bóng của Fran khi chúng ta vẫn còn trong đấy nhé, Urushi? ||

( *whimper* )

Urushi rên rỉ một tiếng buồn rầu, xong ngoan ngoãn chui vào bóng của Fran. Cậu nhỏ hẳn đã mong sẽ ăn được thứ gì đấy ngon trong đó. Chút nữa chúng tôi sẽ mua gì đấy đền bù cho cậu ta mới được.

| Xin chào. |

Nội thất bên trong của Hội Đầu Bếp có phần tương đồng với Công Hội. Khác biệt duy nhất là bên trong, những người quây quần xung quanh là đầu bếp chứ không phải mạo hiểm giả.

| Chúng tôi có thể giúp gì được cho cô bé? |

| Không có gì cụ thể. |

| Hả? |

Thái độ hoàn toàn thẳng thắng và trung thực của Fran trong thoáng chốc đã khiến cho người nhân viên của hội hoang mang. Tuy nhiên, cô ấy cũng nhanh chóng trở lại biểu cảm ban đầu.

| Em lần đầu đến đây. |

| Chúng tôi không có nhiều chi nhánh, nên điều đó cũng dễ hiểu. Chúng tôi, Hội Đầu Bếp, tạo điều kiện cho những ai cần có cơ hội chạm tay vào những nguyên liệu ẩm thực khắp lục địa. Rất nhiều đầu bếp coi nơi đây là thiên đường. Chúng tôi có rất nhiều mối quan hệ với người bên ngành công nghiệp, cũng như nhiều đầu mối cần thiết cho dịch vụ của hội. |

Viên tiếp tân lịch sự giới thiệu với Fran dù em ấy vẫn chỉ là một đứa trẻ. Cô ấy nói rằng Hội Đầu Bếp hoạt động tích cực trên tư cách là một thương nghiệp, với cả ngành nguyên liệu và đầu bếp. Hội sẽ nhận đơn đăng kí thành viên từ hai kiểu người: Một hiển nhiên là đầu bếp, còn kế đến là những thương nhân buôn bán mặt hàng thích hợp. Hội khởi đầu vốn là một tổ chức nhỏ có mục tiêu khám phá những công thức nấu ăn mới, và quyết tâm cơ bản đó tồn tại xuyên suốt trong lịch sử hội. Ngay cả bây giờ, dường như nơi này vẫn sẵn sàng chìa tay ra cho những đầu bếp cần sự giúp đỡ.

| Em có phải là đầu bếp không? |

| Đầu bếp? |

Fran bị kẹt vào một tình huống khá kì lạ như thể em ấy chưa từng nấu ăn bao giờ, dù cấp độ nấu nướng đã max từ cái thủa nào rồi.

| Master của em, giỏi nấu ăn. |

| Chị hiểu rồi. Có lẽ master của em không phải là thành viên của hội? |

| Nn. |

| Chị tin rằng master của em rất muốn đăng kí làm thành viên. Chúng tôi cung cấp cho thành viên rất nhiều lợi ích, đặc biệt là liên quan đến bán và mua công thức và nguyên liệu. |

Oh, nghe tuyệt thật, nhưng tôi là kiếm, làm qué gì đăng kí được. Fran thì ngược lại, nhưng con bé vốn đang trong Công Hội mà, nên tôi không chắc có được hay không.

| À, đừng lo lắng quá. Có nhiều thành viên của hội cũng là trường hợp tương tự; họ thuộc về nhiều hội một lúc. Dù vậy, chị phải nói rằng Hội Đầu Bếp không lớn mạnh như Công Hội Mạo Hiểm Giả, đồng thời cũng không nghiêm khắc với thành viên như họ. Hội Đầu Bếp nhìn chung thoải mái hơn nhiều, và về cơ bản, mục đích thành lập của hội là tạo điều kiện cho các thành viên có thể giúp đỡ nhau. |

| Muốn đăng kí. |

| Em có giấy phép buôn bán ở Barbra không? |

| Nn? Dạ không. |

| Vậy em phải đăng kí dưới tư cách là đầu bếp. |

| Vâng. |

| Em sẽ thực hiện một bài kiểm tra, được chứ? |

| Bài kiểm tra? Như thế nào? |

| Đây là Hội Đầu Bếp, nên em sẽ phải nấu nướng. Để đạt bài thi, em cần khiến cho những giám khảo của chúng tôi công nhận ít nhất một món của mình. Chúng tôi có một căn bếp, nếu em muốn thực hiện bài thi ngay bây giờ, nhưng không ép buộc phải làm tại đó. Nếu muốn, em có thể nấu ở nơi khác, xong mang tới đây trước thời gian quy định. |

Điều đó có nghĩa là tôi có thể nhờ Fran mang bài thi của mình để đăng kí đại diện? | Vâng, điều đó được cho phép. Thẻ hội của chúng tôi không yêu cầu gì khác ngoài một cái tên. |

Quào, nó thoáng thiệt chứ. Một công hội thông thường khiến tôi liên tưởng đến thứ gì đó có hệ thống và cứng rắn, nhưng Hội Đầu Bếp không như thế chút nào. Việc đăng kí ở đây gần như đơn giản tựa đăng kí thành viên hay thẻ tích điểm ở Nhật Bản.

| Đồ làm sẵn rồi được không? |

| À thì được, nhưng... |

| Vậy đây, và đây. |

| Hả? À chị hiểu rồi, em có túi vật phẩm. |

Fran lấy từ trong kho đa chiều của mình ra một phần cà ri và xiên thịt heo rừng. Mùi hương đến từ những gia vị được tẩm ướp trong chúng thật sự đã thu hút tất cả những đầu bếp xunh quanh.

Cái xiên là thứ mà em ấy tự làm, nên căn bản là chúng tôi không gian lận chút nào.

|| Anh biết đây là một bài kiểm tra, nhưng có ổn không khi đưa cho họ cà ri thế? Nó là của em mà? ||

Chuyện vi diệu gì đang xảy ra đây? Fran chia sẻ cho người khác cà ri?

( Phải để cho họ thấy khả năng tuyệt vời bậc nhất của Master, không thể mang ra thứ gì kém ngon hơn được. )

|| À –à, anh hiểu rồi. Cảm ơn em nha. ||

| C—chị sẽ gọi giám khảo ra bây giờ. |

| Nn? Chị không phải giám khảo? |

| Đó là việc của những người giỏi hơn, để đảm bảo tất cả mọi người đều công bằng. |

Năm phút sau, viên tiếp tân trở lại với tay giám khảo. Nếu tôi miêu tả ngắn gọn, thì người này là một tay sành ăn rất khó tính. Ông ta làm tôi liên tưởng đến Kaibara Y*zan hay Aji**u. Chỉ nhìn thôi đã làm tôi lo lắng rồi.

| Oh? Vậy cô bé là người đăng kí? |

| Nn. Đây là thành phẩm. |

| Thịt xiên nướng? Hmm... hiểu rồi, tôi sẽ thử. |

Người đàn ông cắn một miếng, và chậm rãi thưởng thức nó trước khi nuốt xuống. Việc mà ông ta giữ nguyên một biểu cảm từ đầu đến cuối khiến tôi có chút lo âu.

| Hmm... khá đơn giản. |

| Không thể tránh khỏi. |

Fran khá biết khả năng của mình đến đâu, nên em ấy không giận dữ chút nào dù bị phê bình. Con bé đằng nào cũng làm nó cho vui.

| Tuy nhiên, tôi không thể không công nhận hương vị mà nó mang lại. Sự nhiệt tình và tấm lòng của cô bé, tôi có thể cảm nhận được thông qua món ăn này. Và chính nó như đã nói với tôi rằng cô bé đã cố hết sức để khiến cho món ăn này càng ngon càng tốt, dù chỉ có rất ít nguyên liệu. |

| Nn? |

Quào, ông ấy thật sự hiểu biết. Đúng là em ấy có làm món này vào lúc rỗi, nhưng không có nghĩa là Fran không đặt toàn bộ tâm huyết của mình vào.

Đó là món mà con bé đã cẩn thận ninh với hỏa phép trong cỡ nửa tiếng đồng hồ. Fran không dùng bất cứ gia vị đặc biệt nào ngoài những thứ tối thiểu phải có và cố gắng hết sức. Dù thiếu thốn một đằng, nhưng em ấy đã xoay sở thành công để khiến cho vị khá ngon. Tuy nhiên, bắt buộc phải kiên nhẫn kiểu đấy đã khiến em ấy không còn hứng thú với nấu nướng nữa, và coi quá trình tỉ mỉ đó gần như thể hành xác.

Chỉ với một miếng, người giám khảo đã có thể nhận thấy sự cố gắng đó. Nghiêm túc đó, quào.

| Tôi công nhận món này, cô bé đạt. |

| Nn. |

Whew, em ấy đậu rồi. Việc Fran vượt qua kì thi chỉ với xiên thịt như thế, tôi nghĩ mình chắc cũng sẽ chẳng có vấn đề gì đâu. Dù vậy, tôi thấy không cần thiết để mình đăng kí nữa khi đã đạt được những lợi ích nhắm đến rồi.

( Không. Em không đăng kí. )

|| Sao không? ||

( Muốn họ bị nổ tung bởi món của Master. )

Có vẻ em ấy thật sự không quan tâm đến những lợi ích nêu trên mà chỉ muốn khiến người giám khảo khó tính này phải bàng hoàng trước cà ri.

| Tiếp theo, đây. |

| Quả là một món ăn hấp dẫn. Vẻ ngoài của nó khiến tôi liên tưởng đến nền ẩm thực của Azerian, nhưng mùi hương có phần êm dịu hơn, đồng thời cũng khác so với tiêu chuẩn thông thường của nơi đó. |

| Được gọi là cà ri. Làm bởi Master. |

| Vậy đây là một trong những thành phẩm của master cô bé? |

| Vâng. Tuyệt tác tạo bởi máu và công sức suốt nhiều năm ròng. |

Cái gì, không! Khôngggggggg! Tất cả những gì tôi đã làm là mô phỏng lại một trong những món ăn phổ biến nhất quả đất trước! Đồng thời, tôi quyết định làm nó cũng chỉ vì dạo kia có toàn bộ những nguyên liệu cần thiết!

| Oh? Tôi mong chờ đấy. |

| Cà ri là món ngon ăn nhất thế giới. |

| Tôi sẽ rất vui nếu điều đó là thật. |

Người sành ăn già cỗi đưa một miếng vào miệng mình mà thưởng thức trong khi nghe phần tân bốc của Fran.

| Oh? |

| Ngon. |

| Hmm... |

| Tuyệt tác. |

Fran không thể chỉ đứng chờ và lấy ra một dĩa khác mà vừa ăn, vừa nhìn người giám khảo với ánh mắt kiêu hãnh. Biểu cảm đó cho thấy con bé khá chắc ông giám khảo sẽ bị thổi bay khỏi ngưỡng cửa vì hương vị của nó.

| Không tệ. |

| Nn. Tất nhiên. |

| Nhưng cô bé thật sự tin rằng thứ chỉ có trình độ dường này có thể đánh bật bất cứ món ăn nào khác trên thế giới? |

Khoản khắc mà người đàn ông thốt lên lời bình luận, Fran hoàn toàn đông cứng lại.

| Hah? |

Biểu cảm của em ấy trở nên trống rỗng, và liền thay vào đó là một cơn khát máu tột độ.
Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện