Vào tháng 5 đầu hè, kinh đô Ecbatana của Pars chào đón một mùa xanh mướt.
Dù nắng gắt nhưng không khí lại khô ráo và gió thổi lồng lộng nên vẫn có cảm giác mát mẻ, dễ chịu khi đứng dưới bóng cây, hoặc ngồi trong phòng. Người già và trẻ nhỏ được thuê làm nhiệm vụ té nước lên hiên để nước bốc hơi tản bớt nhiệt. Triều đình trả lương cho họ đều đặn.
Những người bán hàng phủ thảm rơm lên mái, dưới sàn trải chiếu tre của xứ Serica. Họ bày bán nhiều loại hoa quả, chủ yếu là dưa hấu, liên tục dội nước lạnh để khiến trái cây tươi ngon hơn.
Những người thợ thủy tinh không ngừng đốt lửa, mồ hôi đầm đìa nên thay phiên nhau ra giếng công cộng dội nước. Họ quấn khăn ngâm nước lạnh quanh cổ, dù điều đó chẳng giúp ích được gì khi ở trong hầm lò.
Tiệm bánh bán bánh mì nướng nguyên hạt với mật ong. Những đứa trẻ rách rưới chỉ biết chăm chăm nhìn ổ bánh với vẻ thèm thuồng. Ban đầu ông chủ cố tình lờ đi, nhưng rồi cũng thương cảm mà cho nó một cái. Thấy đứa bé mừng rỡ chạy đi, ông chủ quát.
"Đừng có quên ơn đấy. Sau mày mày phải trả tao gấp đôi."
Lúc chạng vạng ở Ecbatana, một thanh niên đội mũ trắng rảo bước trên phố. Một chàng trai khác thấp hơn đi bên cạnh. Dù ăn vận bình thường nhưng trông bọn họ vẫn có gì đó khác biệt hẳn với những người còn lại.
Chàng trai đội mũ trắng vẻ mặt rất thản nhiên trong khi người đi cùng lại liếc nhìn xung quanh bằng cặp mắt sắc bén. Vì vẻ ngoài đẹp đẽ, cả hai thu hút ánh mắt của rất nhiều cô gái trên đường.
Hai người đi qua đám đông rồi bước vào một tòa nhà màu trắng. Đó là một quán rượu có tên Bách công nương. Nơi này là chốn tụ tập của thương nhân đến từ đủ miền đông tây. Trong quán nhộn nhịp không lúc nào ngớt, đủ thứ ngôn ngữ khác nhau. Vừa vào cửa đã thấy đại sảnh và tầng hai chật kín khách. Người phục vụ bưng mâm bát đĩa ra ra vào vào. Bầy cá vàng xứ Serica nhàn nhã bơi lội trong ao nước. Những con vẹt đến từ ốc đảo trên sa mạc đậu trên mép tường. Mùi thức ăn ngon và rượu hảo hạng ngập tràn gian quán nhỏ.
Từ tầng hai nhìn xuống đại sảnh, có một người đàn ông cao lớn với dáng dấp thủy thủ đang đợi ở góc trái. Trên chiếc bàn tròn vẫn chưa có đĩa thức ăn nào được bày ra.
"Xin lỗi đã để anh chờ lâu, Gurazeh."
Arslan, chàng trai đội mũ trắng nói.
"Bệ hạ, người chẳng thay đổi chút nào. Còn cậu Elam thì vẫn tràn đầy sức sống." Gurazeh, người đàn ông của biển cả, liền bắt tay vào việc sau đôi câu chào hỏi.
"Tin tức chúng thần thu thập được như thế này. Một tàu buôn có vũ trang ở cảng Malabar bị một nhóm người, nghi là đội quân mặt nạ, tấn công. Sau khi đánh chìm một tàu chiến Sindhura, nó đã biến mất ngoài khơi."
"Rajendra cũng gửi tin như vậy. Xem ra anh ta nói thật."
"Vua Sindhura chỉ nói dối nếu được lợi mà thôi."
Elam tự hào khoe cái lưỡi sắc bén thừa kế được từ thầy mình. Arslan chỉ biết cười khổ, còn Gurazeh thì há miệng cười sang sảng, nhưng sau đó liền im lặng. Người hầu bưng rượu và đồ ăn lên. Một thùng bia lạnh, một đĩa súp thịt gà, chân gà nướng vàng thơm phức, cá nước ngọt chiên giòn, bánh mì mỏng rắc hành tây và thịt bò băm, vài loại trái cây nữa đủ cho 4 người. Riêng Gurazeh ăn phần của 2 người.
"Người Turan không biết lái tàu. Chắc họ sẽ giữ các thủy thủ Sindhura sống và bắt họ phục vụ mình."
"Vì sao biết chắc đó là người Turan?"
"Vì họ tìm thấy vài cái xác chết đuối."
Theo lời giải thích của Gurazeh, sáng sớm hôm tàu buôn có vũ trang Bandera bị cướp, ba thi thể dạt vào vịnh Malabar. Họ đều là những thanh niên cởi trần, trên mình nhiều sẹo có lẽ do chiến đấu, mặc độc nhất chiếc quần kỵ binh Turan. Dựa trên một số lời khai khác, có người thấy những chiến binh Turan trốn từ thung lũng Ketkampla về hướng đó. Có lẽ sau khi chạy thoát, họ không còn cách nào ngoài cướp tàu, ra biển. Nghe vậy, Elam nói :
"Kể cả khi người Turan rơi vào tình cảnh khốn cùng, không có nơi nào để đi, họ cũng không thể nghĩ tới chuyện ra biển vì họ thậm chí còn không biết bơi. Tôi tin chắc đó chỉ có thể là quân của hoàng tử Hilmes."
"Hilmes từng đi biển sao?"
"Hắn từng sống ở Maryam nên chắc chắn có hiểu biết nhất định. Hắn cũng từng tới Lusitania bằng đường biển." Elam khẳng định rồi cười khúc khích.
"Nhưng mà, những suy đoán trên kia phần lớn là của ngài Narsus, chứ tôi không nghĩ được nhiều vậy đâu."
Gurazeh cười lớn, nâng cao cốc bia.
Thật xuất sắc, Arslan thầm nghĩ. Nếu mà Narsus sinh ra tại Lusitania, chỉ huy quân đội Lusitania xâm lược Pars thì chắc giờ này đầu của chàng đã phơi trên cổng trại.
Không chỉ Narsus, cả "chiến binh của các chiến binh" Dariun nữa, dù có sinh ra ở bất cứ đâu, khả năng chiến đấu của anh sẽ lập nên những kỳ tích vô tiền khoáng hậu. Người ta nói hoàng đế của Serica ngày trước đã ngỏ lời tặng đất đai, mỹ nữ, ngựa quý để Dariun quy phục. Dù Dariun vô cùng cảm kích nhưng kiên quyết từ chối và quay lại Pars. Ngay sau đó, quân Lusitania kéo đến, gây ra trận chiến kinh hoàng ở bình nguyên Atropatene.
"Ngài Hilmes có ý định gì?"
Elam đặt ra câu hỏi quan trọng nhất. Arslan không vội đáp, còn Gurazeh lau bọt bia trên miệng, cười.
"Tuy không biết Hilmes là người thế nào nhưng hắn sẽ không lấy làm tự hào khi trở thành tên cướp biển đâu. Như vậy hắn vĩnh viễn không có được ngai vàng."
"Hắn cũng không thể tự mình tranh ngai vàng được, cần có sự giúp đỡ của một quốc gia tham vọng nào đó."
"Nhưng hắn khó mà quay lại Turk được nữa rồi..."
Nghe cuộc trò chuyện giữa Elam và Guzareh, Arslan trầm ngâm suy nghĩ. Đúng là Hilmes không thể quay lại Turk vì Turk không có mặt nào giáp biển. Đội quân mặt nạ bị tiêu diệt, kết quả cuộc cuộc xâm lăng lẫn cướp bóc đều về con số không, sao Hilmes có thể mặt dày quay lại Turk được chứ.
Với cánh buồm đơn độc giữa biển đông bao lao, Hilmes sẽ đi đâu? "Chắc chỉ quanh Mirs và Nabataean thôi. Đến Mirs rồi cũng có thể từ đó đến Maryam." Elam dùng ngón tay vẽ bản đồ lên bàn ăn, còn Gurazeh nghiêng đầu quan sát.
"Nếu hắn đến Mirs thì cũng hay đấy."
"Vậy là sao, Gurazeh?"
"Vâng, thưa điện hạ. Thực ra gần đây ở Mirs có chuyện gì lạ lắm." Gurazeh hạ giọng, vì anh đã quen gào thét với gió biển nên việc bàn bạc một cách bí mật thế này rất khó khăn. Anh phải làm thế để danh tính của Arslan khỏi bị lộ. Nhưng người ta bảo ở Bách công nương, bạn có thể nói bất cứ chuyện gì bạn muốn, bởi ở đây toàn người tứ xứ bận rộn, chỉ quan tâm đến việc của mình thôi.
Gurazeh nhắc đến vị khách của vua Mirs, cũng tên Hilmes, đeo một tấm mặt nạ vàng và đi cùng một nhóm người Pars.
"Khi đó, Hilmes thật và Hilmes giả sẽ đụng độ nhau ở Mirs?"
Arslan bật cười. Cứ nghĩ đến việc một người kiêu ngạo đến quái gở như Hilmes mà thấy kẻ khác mạo danh mình, không biết sẽ tức giận đến mức nào. Tuy rất đáng thương nhưng biết làm thế nào được, chàng quả thực không nhịn được cười.
"Nếu hắn gặp kẻ giả mạo thì nhất định sẽ không buông tha đâu. Hắn sẽ giải quyết kẻ đó luôn và ngay nên ta không cần phải bận tâm về gã đó nữa." Gurazeh có vẻ vui mừng nhưng Arslan lập tức ngưng cười và nghĩ, nếu chuyện thành ra như vậy thì vua Mirs sẽ làm gì? Ông ta sẽ giữ lấy Hilmes giả, loại bỏ người thật? Hay ông ta sẽ lật mặt, giết kẻ giả danh, ủng hộ Hilmes? Nếu là khả năng thứ hai thì Hilmes sẽ tìm được thế lực chống lưng mới thay cho vua Turk. Đó không phải tin tốt lành cho Pars, kẻ thù xâm lược chỉ thay đổi từ đông sang tây.
"Elam, Narsus nghĩ sao về chuyện này?"
"Hình như đang chờ xem kịch hay rồi đổ thêm dầu vào lửa đó."
"Đúng là Narsus."
Kẻ thù càng loay hoay thì Narsus càng nghĩ ra biện pháp xảo diệu để đối phó. Sau vương quốc Turk và Mirs, quân sư là cái nghề không bao giờ biến mất. Nhưng trong mắt Narsus, họ chỉ là thần dân, giúp vẽ nên một bức tranh tráng lệ, để không bao giờ vơi nguồn cảm hứng.
"Sau này chúng ta sẽ tiếp tục thu thập thông tin chi tiết hơn và điều động hải quân tập kết ở cảng Gilan." Arslan đưa ra kết luận, cuộc họp bàn không chính thức dừng tại đó.
------------------
Khi màn đêm giang đôi cánh khổng lồ phủ che mặt đất, Arslan và Elam quay về cung điện. Lúc này, thường là Elam cất tiếng chào hỏi lính canh để thu hút sự chú ý của họ, tạo cơ hội cho Arslan lẻn vào. Nghe có vẻ trẻ con nhưng một chuyến trốn ra ngoài cung chơi cũng rất thú vị.
Sau khi Elam đi rồi, Arslan men theo lối đến phòng tập luyện để gặp eran Kishward. Những cuộc vi hành của chàng đều được vị đại tướng này âm thầm chấp thuận nên vị vua trẻ nghĩ mỗi lúc quay về nên qua chào anh ta một câu. Nghe chuyện họ gặp nhau ở quán Bách công nương, Kishward bật cười.
"Hình như Gurazeh cũng không thích vào cung điện."
"Thực ra ta cũng đâu thích, nhưng không thể vì thế mà chạy ra biển được. Nhân tiện, cậu chiến binh nhỏ hào hiệp Aiyar vẫn hoạt bát vui vẻ lắm phải không?"
"Hoạt bát đến nỗi nhà thần giờ nhìn như bãi chiến trường."
Aiyar là con trai hai tuổi của Kishward, do Arslan đặt tên. Khi Kishward bế đứa bé trên tay, cùng người vợ Narsin đến diện kiến, thành tích của cậu chiến binh tí hon là tè vào lòng nhà vua, khiến quần áo Vua giải phóng ướt sũng.
"Xin hãy nhắn với phu nhân rằng cánh cửa cung điện luôn rộng mở cho Aiyar bất cứ lúc nào."
"Thần tuân lệnh, thưa bệ hạ."
Sau khi xác nhận lại danh sách các cuộc gặp trước buổi trưa ngày mai, Arslan chào tạm biệt Kishward, quay về phòng ngủ của mình ở sân sau. Jaswant chờ ngoài cửa, cung kính chào.
"Điện hạ vẫn bình an vô sự, thật là may mắn."
"Ta đâu phải ra chiến trường..."
Rồi Arslan chợt nghĩ.
"Jaswant này, lần sau đi cùng ta đi."
"Ngài tể tướng sẽ giận lắm, nhưng vì bệ hạ đã nói vậy nên thần xin cung kính vâng theo." Nghe giọng nói vui vẻ của Jaswant, Arslan mỉm cười, đi vào phòng. Ngả lưng xuống chiếc giường rộng lớn, chàng nghĩ đến Hilmes.
Kể từ sau khi bị đánh bại ở Atropatene vào tháng 10 năm 320 lịch Pars, Arslan đã không còn cô đơn nữa. Xung quanh chàng có bao nhiêu người hỗ trợ, và chàng cảm ơn trời đất vô cùng. Chàng không bao giờ quên những thuộc hạ đã trung thành đi theo mình, kể cả khi bị vua Andragoras lưu đày. Nhưng còn Hilmes, rồi hắn ta sẽ ra sao?"
"Hilmes thật đáng thương."
Chàng không thể không cảm thán, dù biết sự thương xót này sẽ chỉ khiến Hilmes tổn thương và căm hận hơn. Narsus nói, tự cho mình là cao thượng cũng là một kiểu ngạo mạn, và Arslan đồng ý.
"Dù bệ hạ có nhường ngôi cho Hilmes, hắn cũng không vừa lòng. Thứ hắn muốn là giành lấy ngai vàng bằng sức mạnh đường đường chính chính." Arslan nhớ lại lời của Narsus, thở dài. Lúc này, có tiếng vỗ cánh khe khẽ bên cạnh. Chú diều hâu đáp xuống tay nhà vua khi chàng ngồi dậy. Là người bạn, người đồng đội lâu năm của Arslan, chú ta tin cánh tay của vị vua trẻ chính là ngai vàng của mình.
"Có thể làm gì ngoài kiên nhẫn đây?"
Chuyện gì tới cũng phải tới. Arslan biết đó là lỗi của mình. Chàng hiểu rằng giữa mình và Hilmes sẽ không bao giờ có sự thỏa hiệp. Một khi đã quyết tâm bước lên ngai vàng thì phải chịu đựng gánh nặng trong tim.
"Không biết Estelle giờ thế nào."
Arslan chợt nhớ đến cái tên ấy, cô gái người Lusitania tự xưng là hiệp sĩ tập sự Etoile. Arslan gặp cô ở trận thành Saint Emmanuel, người mở ra cho chàng một chân trời mới.
Trước kia, người Lusitania là một thuật ngữ xa lạ với Arslan. Họ chẳng là gì khác ngoài những kẻ xâm lược tàn bạo và đáng khinh, là kẻ thù không đội trời chung của cả đất nước. Nhưng sau khi gặp Estelle, chàng hiểu người Lusitania cũng có máu thịt, có cảm xúc. Nhờ vậy, chàng sẵn lòng bao dung, tha thứ cho kẻ thù, chấp nhận đàm phán hòa bình với họ. Có thể nói người đầu tiên dẫn dắt những điều đó chính là Estelle.
Bỗng nhiên, Azrael đập cánh dữ dội.
"Sao vậy, Azrael?"
Chú chim ưng chỉ đáp lại câu hỏi của Arslan bằng một tiếng rít, sau đó vỗ cánh bay ngang căn phòng, đến bên cửa sổ, hướng mặt ra ngoài lớp kính rồi lần nữa kêu lên âm thanh đầu cảnh báo và thù địch.
Arslan đứng dậy, đi đến bên cửa sổ rồi dừng lại. Một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng vị vua trẻ tuổi. Ngoài kia là một sinh vật đáng sợ và hung ác.
Arslan cầm thanh kiếm đã rời vỏ, hít thật sâu, rồi cẩn thận mở cửa.
Cửa sổ vỡ tung với một âm thanh chói tai. Arslan ngay lập tức né sáng bên, tránh trận mưa thủy tinh bắn vào người, đồng thời vươn tay bảo vệ mắt. Azrael phát ra một tiếng kêu dữ dội đầy đe dọa rồi xông tới một vật thể màu đên có kích thước bằng con người, đang nhảy múa điên cuồng trong không trung, va đập dữ dội với trần nhà và các bức tường.
"Bệ hạ!"
Jaswant mở cửa nhảy vào, bước nhân nhẹ nhàng nhưng thoăn thoắt như một chú báo, lập tức rút kiếm ra, sẵn sàng giết kẻ đột nhập ngay khi nhìn thấy.
Tuy nhiên, anh chàng cũng sững sờ vì không có cuộc đột nhập nào trên mặt đất cả, chỉ có trận chiến khốc liệt trên không. Lông của Azrael bay khắp nơi như những bông tuyết đầu mùa. Vật thể màu đen kỳ lạ định tóm lấy nó nhưng bị chiếc mỏ sắc nhọn của nó chống trả. Arslan quỳ một chân xuống sàn, tay cầm kiếm, sẵn sàng đỡ người bạn có cánh, nhưng tiếc rằng chàng không tìm được nơi nào để can thiệp.
Azrael bay ra ngoài qua ô của vỡ. Nó biết đánh nhau trong không gian hẹp thì mình sẽ gặp bất lợi.
Elam đang đi tuần trong sân ban đêm vào trước giờ ngủ thì nghe tiếng động lạ. Nhìn lên, anh thấy một bóng chim sải cánh giữa trời.
"Azrael?"
Vẻ mặt anh từ hoang mang chuyển sang kinh sợ. Elam vội cầm kiếm chạy lên.
"Bệ hạ có sao không?"
Anh định chạy tới phòng nghỉ của nhà vua nhưng khựng lại vì những âm thanh chói tai phát ra trên lầu. Những mảnh thủy tinh văng tứ tung dưới ánh trăng. Một bóng đen lớn hơn Azrael nhiều vay vút lên trời, nghe như âm thanh của ngàn con dơi đập cánh. Bay một lúc, cái bóng tung mình nhảy vọt lên cao. Nhìn nó có hình dáng giống như con người nhưng sau lưng là đôi cánh không ngừng vỗ, phát ra tiếng kêu đinh tai nhức óc.
Đôi tay dài của nó vươn ra, định tóm lấy Azrael. Động tác chú chim ưng lúc này có phần chậm chạp. Chim ưng vốn không giỏi chiến đấu vào ban ngày. Elam nhìn trận giao tranh trên không, không biết nên hỗ trợ Azrael trước hay xác nhận an nguy của Arslan. Cuối cùng, anh ưu tiên xác minh tình thế.
"Bệ hạ!"
"Elam đấy à? Hãy cẩn thận!"
Nghe tiếng Arslan, Elam đoán rằng vị vua trẻ vẫn bình an vô sự. Sau khi an tâm một phần, anh bắt đầu động não. Elam nhìn quanh, chộp lấy một hòn đá lớn trên mặt đất. Anh xoay cổ tay, ném hòn đá đi thật xa.
Con quái vật bị hòn đá đập vào lưng, vừa tức giận vừa kinh ngạc, quay đầu lại. Khi thấy Elam, hai mắt nó đỏ ngầu.
Đôi cánh đen của nó đập phạch phạch giữa trời đêm, lao xuống. Giữa cặp cánh của nó quạt ra làn gió mang mùi hôi thối khủng khiếp. Elam nhắm mũi kiếm của mình vào giữa cặp mắt đỏ. Tuy nhiên, con quái vật bay lên rất nhanh, tránh được đòn tấn công của Elam, sau đó lại lao xuống như một hòn đá rơi. Móng vuốt của nó nhấm vào cổ Elam. Anh nhảy sang bên, tránh đòn chí mạng nhưng mất thăng bằng và ngã xuống. Dẫu vậy, anh vẫn kịp vung kiếm ngăn đòn thứ hai của con quái vật. Sau khi kiếm và móng vuốt va chạm với nhau, nó lại lần nữa bay vút lên.
Lúc này, nhận được thông báo từ Jaswant, Narsus, Farangis, Kishward và Alfarid đã dẫn quân đến từ nhiều hướng trong cung điện.
"Haha, đó là lý do vì sao ta không thể rời khỏi Arslan bệ hạ. Theo bệ hạ không bao giờ cảm thấy buồn chán." Người đang vui vẻ cười này là anh chàng hát rong Gieve.
Quan thanh tra Gieve giật lấy ngọn giáo có mũi kim loạt gắn ở hai đầu từ tay một lính canh. Người ta tưởng anh sẽ phóng giáo vào con quái vật, nhưng lại đặt nó dưới chân và hét lên thách thức nó. Đôi mắt đỏ ngầu của sinh vậy lạ liền quay sang Gieve.
--------------------------
Con quái vật phát ra một tiếng rít kỳ quái, khiến người khác chỉ muốn bịt chặt hai tai, rồi lao thẳng về phía Gieve.
"Gieve, cẩn thận!"
Gieve vẫn bình tĩnh trước lời cảnh báo của Arslan. Anh buông hai tay, đứng im với nụ cười tự tin trên gương mặt đẹp trai.
Ngay khi móng vuốt của con quái vật chuẩn bị vồ lấy Gieve....
Thân thể nó lộn nhào trên không, những tiếng kêu đinh tai nhức óc vang vọng khắp cung điện. Người ta thấy một vật thon dài xuyên qua thân thể nó. Nó đập cánh điên cuồng nhưng không đủ sức bay lên. Cuối cùng, sinh vật lạ rơi xuống đất, vùng vẫy trong cơn ngắc ngoải, miệng không ngừng rền rĩ.
Elam không hề do dự, chạy tới chém đầu con quái vật bằng thanh kiếm. Hai chân và đuôi của nó giật liên hồi.
"Gieve, anh không bị thương chứ?"
Gieve kính cẩn đón Arslan đang chạy đến.
"Bệ hạ đừng lo, thứ duy nhất trên đời này có thể khiến thần bị tổn thương là lời từ chối của một cô gái xinh đẹp."
"Xem ra miệng lưỡi anh còn lanh lẹ lắm."
Arslan bật cười, nhưng rồi im lặng nhìn anh ta bằng cặp mắt ngưỡng mộ. "Ta chưa bao giờ thấy loại võ thuật này trước kia. Hóa ra tài năng của anh không chỉ có bắn cung và đấu kiếm." Khi ấy, Arslan trông thấy rõ ràng màn trình diễn tuyệt vời của Gieve. Anh ta đứng trước mặt con quái vật với hai bàn tay trống rỗng, chỉ có ngọn giáo nằm dưới chân. Ngay ghi nó đến gần, Gieve giẫm lên đầu ngọn giáo, khiến nó nảy dựng lên, đâm xuyên qua con quái vật từ bên dưới.
Những người lính cầm đuốc, đứng thành một vòng tròn sáng rực. Narsus và Farangis thấy xác con quái vật, liền kêu lên.
"Quỷ vượn có cánh...?"
Đó là một loài quái vật trong truyền thuyết, thân giống người và vượn, cánh giống dơi. Móng và răng của nó đều có chứa chất độc, có thể ăn mòn sinh vật sống. Nó thích ăn thịt người, đặc biệt là trẻ em và trẻ sơ sinh. Loài sinh vật này từng bị Vua thánh hiền Ramshid đày xuống thành phố dung nham dưới lòng đất, trở thành tùy tùng của Xà vương Zahhak. Đến khi xà vương Zahhak bị đánh bại, chúng cũng biến mất theo. Vì sao con quái vật hung ác này lại sống dậy và xuất hiện trong cung điện? Ai đưa nó tới đây?
"Có phải là Xà vương Zahhak....?"
Cái tên này vừa mới được nhắc đến đã khiến người ta lạnh buốt sống lưng. Các chiến binh ngơ ngác nhìn nhau. Elam, Jaswant, Gieve, Narsus, Kishward, Alfarid, Farangis, và ngay cả Azrael trên vai Arslan cũng khẽ rùng mình.
"Dù quỷ vượn có cánh vẫn còn tồn tại dưới lòng đất hay vùng biên giới đi nữa, chúng cũng không thể một mình xuất hiện ở chỗ đông đúc như kinh thành Ecbatana được. Chắc chắn kẻ chủ mưu vẫn ở đâu đó quanh chúng ta thôi. Không thể lơ là." Narsus nhắc nhở. Kishward gật đầu rồi sải bước đi trước. Anh cần huy động lính gác khám xét toàn bộ cung điện.
Tất cả các ô cửa sổ đều thắp sáng đèn, kể cả những khu vườn lớn. Thấy cung điện đột nhiên bừng sáng giữa đêm như thế, người dân Ecbatana thức khuya vô cùng kinh ngạc.
"Đúng là nhốn nháo hết cả chỉ vì một con chuột chũi."
Arslan cười khổ, và Narsus đáp.
"Đương nhiên, chuyện quốc gia đâu thể giải quyết dễ dàng. Nếu bỏ qua chuyện này thì những kẻ âm mưu sẽ càng thêm đắc ý. Phải triệt để...." Narsus còn dứt lời, một giọng nói đã vang lên.
"Tên hôn quân sẽ không được ngủ yên!"
Tất cả những người xung quanh đều nghe thấy. Elam, Gieve và Jaswant không thể xác định âm thanh phát ra từ đâu. Khoảng sân rộng lớn bao trùm trong sự thù địch, sẵn sàng bộc phát.
"Ta sẽ chui vào giấc mơ của Arslan hằng đêm, biến hắn thành mồi cho những cơn ác mộng. Hãy chờ đấy."
Jaswant quát lên cảnh cáo. Dù biết đối phương sẽ không ngoan ngoãn bước ra nhưng anh vẫn không nhịn được mà muốn chửi bới một trận. Lúc này, nữ tư tế Farangis đặt cây sáo pha lê lên môi, không nói một lời. Từ những ngón tay như ngọc phát ra giai điệu vô hình. Gieve ngây người nhìn bóng dáng cô, nhưng đôi mắt anh ta chợt sắc bén như một lưỡi dao. Anh lập tức vung kiếm. Con dao găm nhắm vào Farangis bị kiếm của Gieve đánh bay, rơi xuống đất với âm thanh loảng xoảng.
"Đằng kia!"
Elam và Jaswant cùng lao về hướng con dao phóng tới. Có bóng người di chuyển trong bụi cây, vừa nhảy lên vừa chửi rủa. Tiếng sáo pha lê mà người thường không nghe thấy lại khiến hắn đau đớn, buộc phải rời nơi ẩn náu. Gã né được lưỡi kiếm của Elam và Jaswant, chạy được chừng 10 gaz thì đó cũng là khoảng khắc cuối đời.
Thanh kiếm thép của hiệp sĩ đen chém đôi hắn từ vai trái đến thắt lưng.
Gã pháp sư chỉ cảm thấy cơn đau dữ dội như lửa đốt, rồi không tỉnh lại nữa. Phép ảo ảnh có cao siêu đến mấy cũng không giúp hắn tránh được những nhát kiếm nhanh như chớp, mà còn không có thời gian thi triển phép thuật. Gã pháp sư ngã xuống, máu lênh láng, chẳng trăn trối được lời nào.
Sau khi lau lưỡi kiếm dính máu, chàng dũng sĩ mới đến quỳ trước mặt Arslan.
"Thần đến muộn, không kịp hộ giá, xin bệ hạ thứ tội."
"Dariun, anh đến vừa đúng lúc."
"Đáng lẽ thần phải để hắn sống sót để lấy lời khai nhưng thần lại hấp tấp và giết chết hắn."
"Không, ngài sẽ không khai thác được thông tin nào đâu. Lũ quỷ này chỉ cần mở miệng nói sự thật, chúng sẽ mất mạng ngay." Người lên tiếng là nữ tư tế Farangis, cô đã cất cây sáo pha lê đi. Trong khi cô quan sát thi thể tên pháp sư, Gieve cũng nhìn cô bằng ánh mắt thích thú. Tuy vây, trên gương mặt thanh tú xinh đẹp của cô vẫn chẳng có biểu cảm nào.
"Tên này nói muốn lẻn vào giấc mơ của bệ hạ, khiến người chìm trong ác mộng triền miên."
"Vậy thì Farangis ta cũng sẽ đi vào khu vườn mộng mị của bệ hạ để tiêu diệt hắn." Lúc này, Farangis đắm mình dưới trăng, tựa như một bức tượng bằng đá sapphire.
"Nếu ta thành tư tế thì có thể làm những điều như vậy ư?"
Arslan vô cùng kinh ngạc, còn Farangis mỉm cười, lần đầu tiên cô cười trong tối nay.
"Thần thường không làm vậy, trừ khi cần thiết."
Gieve liền xen vào.
"Ôi, tiểu thư Farangis, liệu nàng có phải người đẹp hàng đêm xuất hiện trong giấc mơ và đọc cho tôi nghe những bài thơ tình? Dù khi ấy người đẹp luôn che một chiếc khăn lụa mỏng nên tôi không thể nào biết được dung mạo."
"Không thấy mặt thì sao anh biết đó là người đẹp?"
"Bởi tình yêu trong sáng không tì vết của nàng."
"Vậy thì chắc chắn là cô ta không tồn tại."
"Ôi lời nói dối mới sắc bén làm sao. Tiểu thư Farangis ngại ngùng đấy ư?"
"Tôi ngại mới lạ."
Mọi người cười ồ lên. Việc giải quyết hậu quả sau đó được giao cho Dariun và Narsus, trong khi Arslan gọi Farangis lên ban công tầng hai.
"Farangis này."
"Vâng, thưa bệ hạ."
"Từ năm ngoái tới giờ, cô luôn lo lắng chuyện gì vậy?"
Nữ tư tế xinh đẹp không thể trả lời ngay. Arslan chân thành nói, "Có lẽ ta không nên can thiệp quá nhiều, nhưng ta cứ băn khoăn mãi. Kể cả nghe chuyện của cô, ta cũng không thể giúp được gì. Nhưng biết đâu ta lại có thể san sẻ phần nào nỗi lo của cô. Nếu được, hy vọng cô bằng lòng cho ta biết. Không chỉ ta, Gieve cũng rất lo lắng."
Nghe những lời dịu dàng của vị vua trẻ, đôi môi đỏ mọng của Farangis hé mở.
"Cái lo lắng của anh ta khác với lo lắng của bệ hạ. Nhưng thần cũng thật có lỗi khi khiến người bận lòng."
"Farangis, chúng ta là bạn mà."
"Bệ hạ là vua một nước, chúng thần không dám nhận danh xưng đó."
"Không đâu, dù trên hình thức, chúng ta là quân thần, nhưng ta vẫn luôn coi các vị là bạn bè, chiến hữu. Cô, Gieve và những người khác đã cứu ta hết lần này đến lần khác, đưa ta lên ngai vàng, chia sẻ cùng ta gánh nặng. Nên cô cũng hãy để ta gánh vác một phần nỗi lo của cô."
Ánh trăng lặng lẽ trải trên ban công cẩm thạch. Cuối cùng, một giọng nói du dương cất lên.
"Có lẽ cũng đã lúc rồi. Thần vẫn luôn tìm thời điểm thích hợp để nói ra điều này." Thế là Farangis bắt đầu kể.
---------------------
"Khi đó, tuổi thần còn nhỏ hơn Alfarid. Thần chỉ biết, nhắc đến ánh sáng là nắng, nhắc đến gió là gió xuân...." Triều đại Andragoras đệ tam, nhà vua hùng mạnh đến nỗi nơi nơi đều biết. Kinh đô Ecbatana vô cùng thịnh vượng, trở thành trung tâm giao lưu kinh tế và văn hóa của các quốc gia trên Đại lục vương lộ. Dù đôi khi vẫn xảy ra chiến tranh trong và ngoài nước nhưng quyền lực và uy tín quốc gia Pars không mảy may suy chuyển. Ai cũng nghĩ rằng sự hưng thịnh ấy sẽ kéo dài thật lâu.
Nhà vua vừa có con nối dõi, liền xây dựng một ngôi đền thờ thần Mythra.
Cha mẹ Farangis qua đời khi cô còn nhỏ. Cha cô là hiệp sĩ, để lại ít nhiều tài sản sau khi mất. Ông dành một nửa tài sản cho con gái, nửa còn lại hiến dâng cho đền, cầu xin đền nuôi nấng cô bé. Thế là Farangis từ nhỏ đã sinh sống trong đền thờ.
Ngôi đền nằm ở một thị trấn nhỏ tên Kuzestan, phía đông kinh thành Ecbatana, phía tây thành Peshawar và phía bắc dãy núi Niruz. Những ngọn đồi trùng điệp bao quanh một vùng đất đai màu mỡ với rừng và đồng lúa ở khắp nơi. Vào mùa đông, những cơn gió mùa ẩm ướt từ phương bắc thổi về, tạo thành mây tuyết trên đỉnh núi, cho nên khi ấy sẽ có hai ba đợt tuyết lớn, cản trở giao thông. Trong đền có trường học, vườn cây, đồng cỏ, sân tập võ, bệnh xá, cùng nhiều công trình khác dành cho các nam nữ tư tế.
Farangis tu tập từ nhỏ, cố gắng hết sức để trở thành tư tế phụng sự đền thờ. Ngoài ra, cô luyện tập võ thuật để tự vệ, đạt được thành tích xuất sắc trong mọi bộ môn như cung, kiếm và cưỡi ngựa. NGoài ra, tư tế còn phải giàu tri thức, đôi khi sẽ xuống làng dạy học, chữa bệnh, hướng dẫn người thân trồng cấy, đôi khi làm cố vấn cho quan chức địa phương. Vì thế, Farangis có hiểu biết cả về y học lẫn thảo dược. Dù không phải chuyên gia nhưng kiến thức chung của cô về địa lý, lịch sử, toán học, thơ ca, may vá, chăn nuôi, làm đồ gốm đều rất đáng nể.
Nữ tư tế bị cấm lấy chồng sinh con, đền thờ coi đó là luật lệ. Nhưng nếu tu sĩ đó đã từ bỏ đền thờ và quay lại cuộc sống thế tục thì có thể yêu đương, kết hôn thoải mái. Một khi hoàn tục, họ sẽ đối mặt với hệ thống giai cấp như quý tộc, hay dân thường. Nhưng đó không phải bức tường không thể phá vỡ. Có lúc, một phụ nữ xuất thân nông dân nhưng được vua sủng ái, sinh ra thái tử thì sẽ thành hoàng hậu. Anh em của cô ấy đương nhiên cũng thành vương tôn quý tộc.
Với con trai, hầu hết họ đều ra chiến trường, mong lập công để được thăng từ dân thường lên chiến binh, hoặc là trau dồi kiến thức để trở thành thầy tu. Vì vậy, trong những tư tế trẻ cống hiến hết mình cho đền thờ, không chỉ có những người một lòng sùng đạo, còn những kẻ tham vọng đầy mình.
Farangis 17 tuổi lần đầu gặp Aghrias, 20 tuổi, một thanh niên cao lớn, đẹp trai với mái tóc đen, cặp mắt nâu. Dù sinh ra trong gia đình dân thường nhưng hắn ta có tài học xuất chúng, khả năng hùng biện nên muốn trở thành tư tế để đạt được công danh. Hắn và Farangis gặp gỡ tại đền thờ rồi yêu nhau.
Aghrias có đứa em trai tên là Gurgin, bằng tuổi Farangis và cũng đang theo học tại đền. Trong mắt Gurgin, anh trai hắn không khác nào một vị thần chói sáng. Từ ngoại hình, tài năng đến người yêu như Farangis, tất cả đều là hình mẫu Gurgin khao khát.
Gurgin thường xuyên tranh luận với anh trai mình. Farangis nghĩ cậu ta rất hiếu học nhưng luôn bị anh bác bỏ.
"Dù Vua thánh hiền Ramshid có vĩ đại đến mấy, sau cùng cũng bị Xà vương Zahhak đánh bại. Cho nên cái chúng ta cần là sức mạnh. Chỉ cần có sức mạnh, kẻ ác cũng thắng."
"Em không hiểu à, sức mạnh của kẻ ác không thể tồn tại lâu. Bằng chứng là sau đó Xà vương cũng bị Vua anh hùng Kai Khosrow tiêu diệt. Sau này đừng tùy tiện nhắc đến Xà vương nữa, cẩn thận kẻo bị thần linh trừng phạt đấy." Những cuộc cãi vã đại khái như vậy.
Một năm sau, chưởng tư tế lên kế hoạch chọn ra 3 tư tế trẻ, cử đến đền thờ hoàng gia ở kinh đô Ecbatana để tu tập. Những ai đã tu tập ở đền thờ hoàng gia 3 năm có thể trở thành tư tế cấp cao của đại điện, được phép vào cung làm lễ, thăng chức thành thư ký triều đình, hay quay về ngôi đền trước kia để tiếp tục phụng sự. Phó chưởng tư tế Aghrias tin chắc mình được chọn, và mọi người cũng nghĩ thế. Nhưng cuối cùng, ba người được chọn là những người có xuất thân quý tộc
"Hóa ra ngay cả trong đền thờ cũng dựa vào xuất thân mà phân biệt đối xử, vậy bao nỗ lực của ta có ý nghĩa gì? Thật lãng phí thời gian." Aghrias bực bội nên vắng mặt buổi tiễn ba tư tế đến đền thờ hoàng gia. Hành động này bị các tư tế khác chỉ trích, mắng mỏ. Được Alfarid an ủi và khuyên can, cuối cùng hắn mới phấn chấn hơn một chút. Không lâu sau, có tin từ kinh đô báo về. Xe ngựa của các tư tế gặp nạn trên đường. Hai người bị thương nhẹ, một người chết. Sau tang lễ, một tư tế khác cũng được cử đi thay. Lần này, Aghrias tự tin sẽ đến lượt mình, nhưng lại là một quý tộc nữa được chọn. Chính bởi hành động vắng mặt trong buổi lễ hiến hắn ta bị đánh giá thấp.
Sự thất vọng của Aghrias biến thành tuyệt vọng. Hắn ngày ngày uống rượu, gây rối, tranh cãi với người bên ngoài, chẳng nhưng làm bị thương người khác, còn làm bị thương chính mình. Hắn uống rượu trong lớp học, khi say thì bới móc khuyết điểm, không hoàn thành công việc được giao, bỏ bê những bài luận, tóm lại là tính cách thay đổi hoàn toàn.
Thực ra vẫn có những người đồng cảm với Aghrias, động viên hắn ta nhưng bản thân hắn lại từ chối thiện chí của người khác.
"Ngươi rõ ràng là ghen tị với tài năng của ta, cho nên đừng có nói những lời giả dối ấy nữa. Từ lâu ta đã nhìn thấu những suy nghĩ bẩn thỉu đằng sau khuôn mặt đạo đức giả của ngươi. Ngươi mới đáng bị thương hai." Những người đó thất vọng rồi dần tránh xa Aghrias, nghĩ bụng, "Tên này hỏng thật rồi." "Mặc kệ nó đi." Một tháng sau, bên cạnh Aghrias chỉ còn lại hai ba người bạn, Farangis và Gurgin, nhưng hắn vẫn không chút ăn năn, tiếp tục uống rượu tìm quên.
Kết quả là đền thờ nhận được giấy đòi nợ từ một kỹ viện, khiến các tư tế vô cùng sốc. Sau khi tìm hiểu, họ phát hiện ra Aghrias đã lấy danh nghĩa tư tế của mình, ăn quỵt rất nhiều đồ ăn và rượu. Đền thờ quyết định trục xuất hắn. Farangis đã tìm đến những vị tư tế cấp cao cầu xin : "Hãy cho anh ấy một cơ hội để sửa chữa sai lầm."
Dù được tha thứ một lần nhưng Aghrias vẫn không vui.
"Tất cả là tại cái xã hội phân biệt giai cấp ngu ngốc này. Những người tài năng như ta lại không được ai đoái hoài, cả đời chỉ có thể chôn vùi trong xó xỉnh. Thật đáng nguyền rủa!" Hắn đổ lỗi cho xã hội, nhưng lại không có hành động nào để cải thiện nó, cũng không giúp đỡ những người chịu chung cảnh ngộ bị đối xử bất công như mình. Hắn than trách số phận, còn bản thân lại không chịu cố gắng.
Nếu hắn chịu thừa nhận mình không đủ khả năng vượt qua rào cản giai cấp thì sẽ dễ dàng hơn, đằng này lại để lòng tự trọng dày vò mình. Ngoài, ra Gurgin cố tình chỉ trích các tư tế khác để khiến anh mình yên tâm nhưng vô tình gây thêm áp lực cho hắn. Farangis không chịu đựng nổi nữa và quyết định nói ra tất cả.
"Ta cũng nghĩ xã hội phân chia giai cấp này là thối nát. Nhưng chàng đâu cần phải trở nên nổi bật. Việc tu thân dưỡng tính cũng rất có ý nghĩa. Hãy tìm một ngôi làng bình yên, dạy trẻ em đọc sách, hành nghề y cứu đời. Miễn chàng có lòng như thế, ta sẵn sàng theo chàng."
"Farangis, nàng muốn ta sống như một con chó đi lạc thế sao?"
Aghrias hét lên rằng hắn phấn đấu điên cuồng để giành chiến thắng chứ không phải để chịu nỗi thất bại tủi nhục này. Farangis không bao giờ nhắc lại nữa. Chuyện tiếp theo còn tồi tệ hơn khi các tư tế trong đền công nhận năng lực của Farangis còn tốt hơn Aghrias. Dù là khả năng võ thuật hay kiến thức trừ tà, cô đều vượt trội. Đặc biệt là khả năng chữa trị cùng tài bắn cung của cô tiến bộ vượt bậc, nhận được sự tôn trọng của mọi người. Cô được chưởng tư tế khen ngợi, nhưng Aghrias lại khôg vui khi người yêu của mình đạt được thành tựu.
"Đúng, nàng thật tuyệt vời. Nàng xinh đẹp như thế, dù là chưởng tư tế hay là các tín đồ đề không thể cưỡng lại được sự cám dỗ của nàng. Chỉ cần nàng nở nụ cười, họ sẽ tranh nhau tìm đến. Ta thật sự ghen tị với nàng." Những lời này chẳng những xúc phạm Farangis mà hắn ta còn tự cắm sừng cho mình. Farangis nhìn vào mắt kẻ nghiện rượu, cảm thấy hoàn toàn bất lực. Trước mặt cô là một gã vô phương cứu chữa, một gã hèn hạ trốn tránh sự thật, một kẻ chỉ có thể dùng nỗi đau của người khác để an ủi bản thân.
"Đừng tới đây nữa."
Aghrias nói vậy, và Farangis làm theo. Nhưng cô không bỏ rơi hắn mà chỉ nghĩ hắn cần thời gian để bình tĩnh lại. Trong thời gian này, nữ tư tế càng lúc càng bận rộn với việc tu luyện của mình.
Không lâu sau, một tư tế cấp cao từng buộc tội và chỉ trích thẳng mặt Aghrias đột ngột qua đời sau bữa tối. Người ta phát hiện trong rượu của ông ta có thuốc độc. Thế là Aghrias, người thường xuyên gây sự với ông ta bị nghi ngờ đầu tiên.
"Ta vô tội. Nếu ta thật sự muốn giết hắn thì đã chẳng dùng biện pháp lộ liễu như thế." Aghrias khẳng định. Dù đó là sự thật nhưng tất cả những lời nói và hành động của hắn từ trước đến giờ đã khiến người khác mất niềm tin, vô tình mang tai họa cho hắn. Các tư tế chịu trách nhiệm xử lý vụ án có sẵn thành kiến với Aghrias, bản thân hắn còn tức giận và không chịu hợp tác, cuối cùng hắn bị giam trong nhà tù của đền thờ.
Vì Aghrias vẫn là thầy tu nên các quan chức địa phương không có quyền xử phạt, phải chờ tư tế thượng phẩm xét xử. Hắn sẽ được áp giải đến kinh đô Ecbatana trong một chiếc xe tù.
Farangis bỏ ra 500 đồng tiền từ số tài sản thừa kế của mình, đưa nó cho Aghrias vì cô sẽ cần số tiền ấy khi buổi xét xử diễn ra.
"Ta sẽ đến kinh đô trước ngày xử án. Chàng phải kiên nhẫn chờ ta." Farangis nói. Aghrias cầm lấy túi tiền và gật đầu nhưng đôi mắt không có sức sống. Farangis nhìn chiếc xe áp giả Aghrias rời đi từ cửa sau ngôi đền.
Và đó là lần chia cắt vĩnh viễn.
Trước khi đến được kinh đô, Aghrias đã dùng hết 500 đồng vàng ấy để hối lộ quan chức phụ trách áp giải mình, chuẩn bị chạy trốn. Tuy nhiên, không phải quan chức nào cũng ưa nhận hối lộ. Hắn bị tố cáo ngay sau khi trốn thoát. Aghrias tuyệt vọng, rơi từ trên vách đá xuống vực sâu, gãy cổ, vỡ đầu, chết ngay tại chỗ.
Khi hay tin, Farangis vô cùng bàng hoàng, còn Gurgin thì phẫn nộ. Điều tồi tệ hơn là sau đó, kẻ sát nhân thực sự mới bị bắt, chứng minh Aghrias vô tội.
"Có phải thần Mythra đã không muốn cứu anh trai ta không? Ngài không thể làm được gì? Hay ngài chỉ là kẻ lười biếng? Ta không còn tin vào công lý nữa. Ta không muốn làm thầy tu nữa. Ta muốn những kẻ hãm hại anh trai ta phải trả giá." Dù Farangis khuyên nhủ thế nào, hay các thầy tư tế cố gắng trấn an, Gurgin vẫn không nguôi ngoai được. Một đêm nọ, cậu ta trốn khỏi đền. Không những thế, người ta phát hiện sau khi cậu ta rời đi, bức tượng thần Mithra bị vấy đầy máu chó. Vị tư tế phụ trách trông coi kho bạc của đền bị đánh một gậy vào đầu, trọng thương. Hàng trăm đồng tiền vàng bị đánh cắp. Còn trên bàn làm việc của chưởng tư tế có xác một con chó đã bị cắt cổ.
Người ta tuyên bố trục xuất Gurgin khỏi đền thờ và truy lùng cậu ta. Farangis bị bắt đi thẩm vấn nhưng rồi họ cũng phải thả cô ra. Thực ra chính Farangis cũng không biết Gurgin đã đi đâu, nhưng các tư tế vô cùng phẫn nộ trước hành vi báng bổ thần linh cực đoan này, khiến Farangis bị những người khác ghét bỏ.
Không lâu sau, có tin phát hiện một kẻ lang thang, nghi ngờ là Gurgin. Đền thờ cử 10 tư tế biết võ nghệ cùng 50 binh sĩ đến định bắt hắn. Con Vài người nói rằng đã trông thấy Gurgin đến núi Demavand một mình. Dù ai nấy đều chùn bước khi nghe đến tên địa điểm, nhưng họ vẫn phải truy bắt.
Farangis đã xin cho Gurgin được quay lại, nhưng không một ai chấp thuận. Sau khi đội truy bắt rời đền, Farangis đến gặp chưởng tư tế, nói rằng mình không thể cứu Aghrias, cũng không thể ngăn cản Gurgin, gây ra quá nhiều rắc rối cho mọi người nên xin được rời đền.
"Người chưa từng trải qua thất bại thì không thể trở thành một tư tế thực sự, bởi người như thế không thấu hiểu được trái tim những người phải cầu đến thần thánh mong manh nhường nào. Giống như kẻ chưa từng phạm sai lầm thì không thể tha thứ cho lỗi lầm của kẻ khác, bởi hắn đâu đặt mình vào hoàn cảnh đối phương được. Với tư cách là tư tế, người duy nhất con có thể cứu là bản thân mình. Aghrias phải tự mình đứng lên, chuyện đó không liên quan đến con." Chưởng tư tế trả lời như vậy. Những lời sáng suốt và dịu dàng ấy khiến Farangis bật khóc. Giờ đây, cô quyết tâm sẽ trở thành nữ tu chân chính, nguyện dùng cả cuộc đời phụng sự thần Mithra.
Còn chuyện gì xảy ra với Gurgin, Farangis vẫn luôn tự hỏi.
Một tháng sau, đội truy bắt quay về nhưng chỉ còn lại 20 người. Trông họ như già đi cả chục tuổi vì nỗi sợ hãi, từ chối trả lời bất cứ câu hỏi nào. Từ đó về sau, Farangis không còn gặp lại Gurgin nữa. Mái tóc ngắn của cô cũng dài ra, trở nên xinh đẹp lộng lẫy như hiện giờ.
------------------
"Xin lỗi vì đã lãng phí thời gian của bệ hạ."
Nói rồi, Farangis cúi đầu. Arslan thở dài. Chàng không ngờ một người luôn mang dáng vẻ lãnh đạm với nhân thế, tách biệt khỏi mọi vui buồn sướng khổ trên nhân gian lại có quá khứ gian truân như vậy. Không, có lẽ chính vì quá khứ ấy nên Farangis mới phấn đấu để trở nên xuất sắc như ngày hôm nay. Cô tập luyện võ thuật, trau dồi kiến thức, tu dưỡng nhân cách, tất cả những điều ấy không đến trong ngày một ngày hai mà là cả một quá trình rèn luyện và đào tạo để trở thành tư tế. Farangis đứng dậy, đã không còn cảm thấy thất vọng hay chán nản về những thất bại của mình nữa. Cô lấy lại sức mạnh bằng chính sự mềm mại trong tâm hồn.
"Farangis, cảm ơn đã nói cho ta nghe những chuyện này. Ta vốn hy vọng có thể làm gì đó để giải quyết vấn đề của cô nhưng ta đã quá kiêu ngạo rồi. Trái lại, ta còn phải học hỏi cô nữa." Mỗi người đều có cách sống riêng, không ai có thể dạy bảo ai làm gì. Tuy nhiên, cách sống của nhà vua lại ảnh hưởng rất lớn đến nhân dân và đất nước. Khi vua một nước là kẻ hèn hạ, đố kỵ, luôn đổ lỗi cho người khác về thất bại của bản thân thì không thể cai trị được, sẽ chỉ đào hố chôn mình, như Aghrias vậy.
Vi vua trẻ nhớ lại lời của Narsus.
"Trên đời này không tự nhiên mà có vua. Người ta trở thành vua nhờ sự tự nhận thức. Triều thần sẽ không bao giờ bỏ rơi vị vua có được sự giác ngộ ấy." Một vị vua mà bị các thuộc hạ của mình bỏ rơi thì sẽ đau buồn biết bao, cũng như một người bình thường mà mất hết bạn bè, người thân vậy. Aghrias gục ngã lần đầu vì bức tường quá cao của hệ thống giai cấp, ngã lần hai là do hắn đi không vững, cuối cùng hắn vẫn là kẻ thua cuộc.
"Một cuộc trò chuyện với người đáng giá 10 năm đọc sách."
Những lời cảm tạ đầy tôn kính của Farangis xuất phát từ tận đáy lòng.
"Nhân tiện, bệ hạ có còn nhớ sự cố đêm lễ hội hồ nước không?"
"Ồ, vụ lật thuyền trên hồ xảy ra năm ngoái phải không?"
"Khi đó thần đã gặp Gurgin."
"....Hả?"
Arslan sững sờ, nhìn nữ tư tế đầy cảm thông.
"Cậu ta đã chọn lựa con đường tà đạo. Thần nghĩ có lẽ đó là kết quả tất yếu thôi."
"Farangis, cô không sai. Chính anh ta lựa chọn lối đi đó. Đừng dằn vặt bản thân về những sai lầm của người khác. Cô đã làm hết sức rồi." Vị vua trẻ chân thành nói.
Một lúc sau, Farangis rời đi. Ra đến sân sau, cô bắt gặp một anh chàng nhẹ nhàng bước tới.
"Tiểu thư Farangis yêu dấu, nếu nàng mệt, xin để tôi đưa nàng về phòng. Những con quái vật có thể sẽ lại xuất hiện đâu đó."
"Có một con ngay trước mặt tôi."
"Hahaha, nàng thật biết nói đùa. Tôi là tín đồ trung thành của nữ thần Ashi, nhiệm vụ của tôi là bảo vệ người đẹp khỏi nanh vuốt của kẻ ác."
"Tôi thấy anh chỉ đang lãng phí thời gian."
"Không đâu, tiểu thư Farangis. Nàng không thể yêu nếu như sợ mất thời gian, cũng như không thể sống nếu sợ chết vậy."
"Ồ, anh nói cũng có lý."
Trước phản ứng của Farangis, Gieve tỏ vẻ ngạc nhiên.
"Chuyện gì vậy Gieve?"
"À không có gì. Tôi biết cô Farangis lâu như vậy rồi nhưng đây là lần đầu tiên cô khen ngợi tôi."
"Ra vậy. Đây là lần đầu tiên, cũng là lần cuối. Sau này sẽ không hiệu quả nữa đâu."
"Cô Farangsis, tình yêu mà phải tính toán đầu đuôi thì không còn là tình yêu thuần khiết nữa."
"Tôi không có hứng thú với một gã đàn ông đầy vết nhơ trên mình." Farangis lẳng lặng bước đi. Gieve vẫn kiên nhẫn đuổi theo đến khi cánh cửa phòng nữ tư tế đập thẳng vào mặt.
Những người lính dọn xác gã pháp sư và con quỷ vượn có cánh trong vườn đang cố quét sạch những mảnh thủy tinh vương vãi. Dariun và Narsus giám sát không rời.
"Narsus, chuyện này có liên quan đến vụ trộm mộ tiên vương không?"
"Đợt lễ hội vào mùa thu cũng xảy ra chuyện. Hai việc này có lẽ đều là điềm gở."
"Bọn chúng định từng bước siết cổ chúng ta."
Hai người rời mắt khỏi cái xác vừa được đưa đi, ngước mặt nhìn trời đêm. Những vì sao bị ánh đèn khắp nơi trong cung điện tre khuất, trông chỉ lác đác vài điểm. Dariun mở miệng, cố gắng làm rõ tình hình.
"Kể từ khi Arslan bệ hạ lên ngôi, Pars chưa gặp phải thất bại nào trong các cuộc chiến với ngoại bang. Những cuộc cải cách diễn ra thuật lợi, không có trở ngại lớn. Có lẽ điều này khiến lũ pháp sư kia lo ngại, muốn vội vàng ra tay."
"Đúng vậy. Dù không thể bỏ qua nhưng giờ ta vẫn chưa có cách nào đối phó. Có khi chưa bị siết cổ chết đã chết vì trúng độc rồi. Đừng quên Turk và Mirs còn đang rình rập." Narsus gật đầu khi nghe Dariun nói nhưng vẫn hơi cau mày.
Cuối cùng, vị cựu lãnh chúa Dailam được mệnh danh là "có cả trăm vạn quân trong đầu" lên tiếng.
"Con quỷ vượn có cánh kia là quái vật, có lẽ đã được hồi sinh bằng phép thuật. Ban đầu ta nghĩ phép thuật đã biến mất khỏi thế gian sau khi Xà vương Zahhak bị phong ấn dưới lòng đất. Nhưng có vẻ như vẫn còn những kẻ khác biết về chúng. Ngươi nghĩ sao, Dairun? Ta tự hỏi ai đã hồi sinh nó? Đó có phải mục đích cuối cùng của đối phương không, hay chúng chỉ muốn dùng con quỷ vượn ấy để thử nghiệm trước khi hồi sinh một kẻ nào đó tà ác hơn?"
Dariun và Narsus đều hạ giọng. Họ là trọng thần của vương quốc, có trí tuệ và sức mạnh hơn người, nhưng cũng không dám nói cái tên đó một cách tùy tiện.
Rồi Elam xuất hiện với bước chân lẹ làng.
"Ngài Narsus, bệ hạ đi nghỉ rồi. Ngài Jaswant và tôi sẽ canh gác ngoài cửa đêm nay."
"Thật sao? Ngươi vất vả rồi."
Narsus nhìn Dariun gật đầu. Anh định đợi đến khi trời sáng sẽ thảo luận. Chỉ dưới ánh sáng ta mới nghĩ ra cách đối phó với bóng tối.
Dù nắng gắt nhưng không khí lại khô ráo và gió thổi lồng lộng nên vẫn có cảm giác mát mẻ, dễ chịu khi đứng dưới bóng cây, hoặc ngồi trong phòng. Người già và trẻ nhỏ được thuê làm nhiệm vụ té nước lên hiên để nước bốc hơi tản bớt nhiệt. Triều đình trả lương cho họ đều đặn.
Những người bán hàng phủ thảm rơm lên mái, dưới sàn trải chiếu tre của xứ Serica. Họ bày bán nhiều loại hoa quả, chủ yếu là dưa hấu, liên tục dội nước lạnh để khiến trái cây tươi ngon hơn.
Những người thợ thủy tinh không ngừng đốt lửa, mồ hôi đầm đìa nên thay phiên nhau ra giếng công cộng dội nước. Họ quấn khăn ngâm nước lạnh quanh cổ, dù điều đó chẳng giúp ích được gì khi ở trong hầm lò.
Tiệm bánh bán bánh mì nướng nguyên hạt với mật ong. Những đứa trẻ rách rưới chỉ biết chăm chăm nhìn ổ bánh với vẻ thèm thuồng. Ban đầu ông chủ cố tình lờ đi, nhưng rồi cũng thương cảm mà cho nó một cái. Thấy đứa bé mừng rỡ chạy đi, ông chủ quát.
"Đừng có quên ơn đấy. Sau mày mày phải trả tao gấp đôi."
Lúc chạng vạng ở Ecbatana, một thanh niên đội mũ trắng rảo bước trên phố. Một chàng trai khác thấp hơn đi bên cạnh. Dù ăn vận bình thường nhưng trông bọn họ vẫn có gì đó khác biệt hẳn với những người còn lại.
Chàng trai đội mũ trắng vẻ mặt rất thản nhiên trong khi người đi cùng lại liếc nhìn xung quanh bằng cặp mắt sắc bén. Vì vẻ ngoài đẹp đẽ, cả hai thu hút ánh mắt của rất nhiều cô gái trên đường.
Hai người đi qua đám đông rồi bước vào một tòa nhà màu trắng. Đó là một quán rượu có tên Bách công nương. Nơi này là chốn tụ tập của thương nhân đến từ đủ miền đông tây. Trong quán nhộn nhịp không lúc nào ngớt, đủ thứ ngôn ngữ khác nhau. Vừa vào cửa đã thấy đại sảnh và tầng hai chật kín khách. Người phục vụ bưng mâm bát đĩa ra ra vào vào. Bầy cá vàng xứ Serica nhàn nhã bơi lội trong ao nước. Những con vẹt đến từ ốc đảo trên sa mạc đậu trên mép tường. Mùi thức ăn ngon và rượu hảo hạng ngập tràn gian quán nhỏ.
Từ tầng hai nhìn xuống đại sảnh, có một người đàn ông cao lớn với dáng dấp thủy thủ đang đợi ở góc trái. Trên chiếc bàn tròn vẫn chưa có đĩa thức ăn nào được bày ra.
"Xin lỗi đã để anh chờ lâu, Gurazeh."
Arslan, chàng trai đội mũ trắng nói.
"Bệ hạ, người chẳng thay đổi chút nào. Còn cậu Elam thì vẫn tràn đầy sức sống." Gurazeh, người đàn ông của biển cả, liền bắt tay vào việc sau đôi câu chào hỏi.
"Tin tức chúng thần thu thập được như thế này. Một tàu buôn có vũ trang ở cảng Malabar bị một nhóm người, nghi là đội quân mặt nạ, tấn công. Sau khi đánh chìm một tàu chiến Sindhura, nó đã biến mất ngoài khơi."
"Rajendra cũng gửi tin như vậy. Xem ra anh ta nói thật."
"Vua Sindhura chỉ nói dối nếu được lợi mà thôi."
Elam tự hào khoe cái lưỡi sắc bén thừa kế được từ thầy mình. Arslan chỉ biết cười khổ, còn Gurazeh thì há miệng cười sang sảng, nhưng sau đó liền im lặng. Người hầu bưng rượu và đồ ăn lên. Một thùng bia lạnh, một đĩa súp thịt gà, chân gà nướng vàng thơm phức, cá nước ngọt chiên giòn, bánh mì mỏng rắc hành tây và thịt bò băm, vài loại trái cây nữa đủ cho 4 người. Riêng Gurazeh ăn phần của 2 người.
"Người Turan không biết lái tàu. Chắc họ sẽ giữ các thủy thủ Sindhura sống và bắt họ phục vụ mình."
"Vì sao biết chắc đó là người Turan?"
"Vì họ tìm thấy vài cái xác chết đuối."
Theo lời giải thích của Gurazeh, sáng sớm hôm tàu buôn có vũ trang Bandera bị cướp, ba thi thể dạt vào vịnh Malabar. Họ đều là những thanh niên cởi trần, trên mình nhiều sẹo có lẽ do chiến đấu, mặc độc nhất chiếc quần kỵ binh Turan. Dựa trên một số lời khai khác, có người thấy những chiến binh Turan trốn từ thung lũng Ketkampla về hướng đó. Có lẽ sau khi chạy thoát, họ không còn cách nào ngoài cướp tàu, ra biển. Nghe vậy, Elam nói :
"Kể cả khi người Turan rơi vào tình cảnh khốn cùng, không có nơi nào để đi, họ cũng không thể nghĩ tới chuyện ra biển vì họ thậm chí còn không biết bơi. Tôi tin chắc đó chỉ có thể là quân của hoàng tử Hilmes."
"Hilmes từng đi biển sao?"
"Hắn từng sống ở Maryam nên chắc chắn có hiểu biết nhất định. Hắn cũng từng tới Lusitania bằng đường biển." Elam khẳng định rồi cười khúc khích.
"Nhưng mà, những suy đoán trên kia phần lớn là của ngài Narsus, chứ tôi không nghĩ được nhiều vậy đâu."
Gurazeh cười lớn, nâng cao cốc bia.
Thật xuất sắc, Arslan thầm nghĩ. Nếu mà Narsus sinh ra tại Lusitania, chỉ huy quân đội Lusitania xâm lược Pars thì chắc giờ này đầu của chàng đã phơi trên cổng trại.
Không chỉ Narsus, cả "chiến binh của các chiến binh" Dariun nữa, dù có sinh ra ở bất cứ đâu, khả năng chiến đấu của anh sẽ lập nên những kỳ tích vô tiền khoáng hậu. Người ta nói hoàng đế của Serica ngày trước đã ngỏ lời tặng đất đai, mỹ nữ, ngựa quý để Dariun quy phục. Dù Dariun vô cùng cảm kích nhưng kiên quyết từ chối và quay lại Pars. Ngay sau đó, quân Lusitania kéo đến, gây ra trận chiến kinh hoàng ở bình nguyên Atropatene.
"Ngài Hilmes có ý định gì?"
Elam đặt ra câu hỏi quan trọng nhất. Arslan không vội đáp, còn Gurazeh lau bọt bia trên miệng, cười.
"Tuy không biết Hilmes là người thế nào nhưng hắn sẽ không lấy làm tự hào khi trở thành tên cướp biển đâu. Như vậy hắn vĩnh viễn không có được ngai vàng."
"Hắn cũng không thể tự mình tranh ngai vàng được, cần có sự giúp đỡ của một quốc gia tham vọng nào đó."
"Nhưng hắn khó mà quay lại Turk được nữa rồi..."
Nghe cuộc trò chuyện giữa Elam và Guzareh, Arslan trầm ngâm suy nghĩ. Đúng là Hilmes không thể quay lại Turk vì Turk không có mặt nào giáp biển. Đội quân mặt nạ bị tiêu diệt, kết quả cuộc cuộc xâm lăng lẫn cướp bóc đều về con số không, sao Hilmes có thể mặt dày quay lại Turk được chứ.
Với cánh buồm đơn độc giữa biển đông bao lao, Hilmes sẽ đi đâu? "Chắc chỉ quanh Mirs và Nabataean thôi. Đến Mirs rồi cũng có thể từ đó đến Maryam." Elam dùng ngón tay vẽ bản đồ lên bàn ăn, còn Gurazeh nghiêng đầu quan sát.
"Nếu hắn đến Mirs thì cũng hay đấy."
"Vậy là sao, Gurazeh?"
"Vâng, thưa điện hạ. Thực ra gần đây ở Mirs có chuyện gì lạ lắm." Gurazeh hạ giọng, vì anh đã quen gào thét với gió biển nên việc bàn bạc một cách bí mật thế này rất khó khăn. Anh phải làm thế để danh tính của Arslan khỏi bị lộ. Nhưng người ta bảo ở Bách công nương, bạn có thể nói bất cứ chuyện gì bạn muốn, bởi ở đây toàn người tứ xứ bận rộn, chỉ quan tâm đến việc của mình thôi.
Gurazeh nhắc đến vị khách của vua Mirs, cũng tên Hilmes, đeo một tấm mặt nạ vàng và đi cùng một nhóm người Pars.
"Khi đó, Hilmes thật và Hilmes giả sẽ đụng độ nhau ở Mirs?"
Arslan bật cười. Cứ nghĩ đến việc một người kiêu ngạo đến quái gở như Hilmes mà thấy kẻ khác mạo danh mình, không biết sẽ tức giận đến mức nào. Tuy rất đáng thương nhưng biết làm thế nào được, chàng quả thực không nhịn được cười.
"Nếu hắn gặp kẻ giả mạo thì nhất định sẽ không buông tha đâu. Hắn sẽ giải quyết kẻ đó luôn và ngay nên ta không cần phải bận tâm về gã đó nữa." Gurazeh có vẻ vui mừng nhưng Arslan lập tức ngưng cười và nghĩ, nếu chuyện thành ra như vậy thì vua Mirs sẽ làm gì? Ông ta sẽ giữ lấy Hilmes giả, loại bỏ người thật? Hay ông ta sẽ lật mặt, giết kẻ giả danh, ủng hộ Hilmes? Nếu là khả năng thứ hai thì Hilmes sẽ tìm được thế lực chống lưng mới thay cho vua Turk. Đó không phải tin tốt lành cho Pars, kẻ thù xâm lược chỉ thay đổi từ đông sang tây.
"Elam, Narsus nghĩ sao về chuyện này?"
"Hình như đang chờ xem kịch hay rồi đổ thêm dầu vào lửa đó."
"Đúng là Narsus."
Kẻ thù càng loay hoay thì Narsus càng nghĩ ra biện pháp xảo diệu để đối phó. Sau vương quốc Turk và Mirs, quân sư là cái nghề không bao giờ biến mất. Nhưng trong mắt Narsus, họ chỉ là thần dân, giúp vẽ nên một bức tranh tráng lệ, để không bao giờ vơi nguồn cảm hứng.
"Sau này chúng ta sẽ tiếp tục thu thập thông tin chi tiết hơn và điều động hải quân tập kết ở cảng Gilan." Arslan đưa ra kết luận, cuộc họp bàn không chính thức dừng tại đó.
------------------
Khi màn đêm giang đôi cánh khổng lồ phủ che mặt đất, Arslan và Elam quay về cung điện. Lúc này, thường là Elam cất tiếng chào hỏi lính canh để thu hút sự chú ý của họ, tạo cơ hội cho Arslan lẻn vào. Nghe có vẻ trẻ con nhưng một chuyến trốn ra ngoài cung chơi cũng rất thú vị.
Sau khi Elam đi rồi, Arslan men theo lối đến phòng tập luyện để gặp eran Kishward. Những cuộc vi hành của chàng đều được vị đại tướng này âm thầm chấp thuận nên vị vua trẻ nghĩ mỗi lúc quay về nên qua chào anh ta một câu. Nghe chuyện họ gặp nhau ở quán Bách công nương, Kishward bật cười.
"Hình như Gurazeh cũng không thích vào cung điện."
"Thực ra ta cũng đâu thích, nhưng không thể vì thế mà chạy ra biển được. Nhân tiện, cậu chiến binh nhỏ hào hiệp Aiyar vẫn hoạt bát vui vẻ lắm phải không?"
"Hoạt bát đến nỗi nhà thần giờ nhìn như bãi chiến trường."
Aiyar là con trai hai tuổi của Kishward, do Arslan đặt tên. Khi Kishward bế đứa bé trên tay, cùng người vợ Narsin đến diện kiến, thành tích của cậu chiến binh tí hon là tè vào lòng nhà vua, khiến quần áo Vua giải phóng ướt sũng.
"Xin hãy nhắn với phu nhân rằng cánh cửa cung điện luôn rộng mở cho Aiyar bất cứ lúc nào."
"Thần tuân lệnh, thưa bệ hạ."
Sau khi xác nhận lại danh sách các cuộc gặp trước buổi trưa ngày mai, Arslan chào tạm biệt Kishward, quay về phòng ngủ của mình ở sân sau. Jaswant chờ ngoài cửa, cung kính chào.
"Điện hạ vẫn bình an vô sự, thật là may mắn."
"Ta đâu phải ra chiến trường..."
Rồi Arslan chợt nghĩ.
"Jaswant này, lần sau đi cùng ta đi."
"Ngài tể tướng sẽ giận lắm, nhưng vì bệ hạ đã nói vậy nên thần xin cung kính vâng theo." Nghe giọng nói vui vẻ của Jaswant, Arslan mỉm cười, đi vào phòng. Ngả lưng xuống chiếc giường rộng lớn, chàng nghĩ đến Hilmes.
Kể từ sau khi bị đánh bại ở Atropatene vào tháng 10 năm 320 lịch Pars, Arslan đã không còn cô đơn nữa. Xung quanh chàng có bao nhiêu người hỗ trợ, và chàng cảm ơn trời đất vô cùng. Chàng không bao giờ quên những thuộc hạ đã trung thành đi theo mình, kể cả khi bị vua Andragoras lưu đày. Nhưng còn Hilmes, rồi hắn ta sẽ ra sao?"
"Hilmes thật đáng thương."
Chàng không thể không cảm thán, dù biết sự thương xót này sẽ chỉ khiến Hilmes tổn thương và căm hận hơn. Narsus nói, tự cho mình là cao thượng cũng là một kiểu ngạo mạn, và Arslan đồng ý.
"Dù bệ hạ có nhường ngôi cho Hilmes, hắn cũng không vừa lòng. Thứ hắn muốn là giành lấy ngai vàng bằng sức mạnh đường đường chính chính." Arslan nhớ lại lời của Narsus, thở dài. Lúc này, có tiếng vỗ cánh khe khẽ bên cạnh. Chú diều hâu đáp xuống tay nhà vua khi chàng ngồi dậy. Là người bạn, người đồng đội lâu năm của Arslan, chú ta tin cánh tay của vị vua trẻ chính là ngai vàng của mình.
"Có thể làm gì ngoài kiên nhẫn đây?"
Chuyện gì tới cũng phải tới. Arslan biết đó là lỗi của mình. Chàng hiểu rằng giữa mình và Hilmes sẽ không bao giờ có sự thỏa hiệp. Một khi đã quyết tâm bước lên ngai vàng thì phải chịu đựng gánh nặng trong tim.
"Không biết Estelle giờ thế nào."
Arslan chợt nhớ đến cái tên ấy, cô gái người Lusitania tự xưng là hiệp sĩ tập sự Etoile. Arslan gặp cô ở trận thành Saint Emmanuel, người mở ra cho chàng một chân trời mới.
Trước kia, người Lusitania là một thuật ngữ xa lạ với Arslan. Họ chẳng là gì khác ngoài những kẻ xâm lược tàn bạo và đáng khinh, là kẻ thù không đội trời chung của cả đất nước. Nhưng sau khi gặp Estelle, chàng hiểu người Lusitania cũng có máu thịt, có cảm xúc. Nhờ vậy, chàng sẵn lòng bao dung, tha thứ cho kẻ thù, chấp nhận đàm phán hòa bình với họ. Có thể nói người đầu tiên dẫn dắt những điều đó chính là Estelle.
Bỗng nhiên, Azrael đập cánh dữ dội.
"Sao vậy, Azrael?"
Chú chim ưng chỉ đáp lại câu hỏi của Arslan bằng một tiếng rít, sau đó vỗ cánh bay ngang căn phòng, đến bên cửa sổ, hướng mặt ra ngoài lớp kính rồi lần nữa kêu lên âm thanh đầu cảnh báo và thù địch.
Arslan đứng dậy, đi đến bên cửa sổ rồi dừng lại. Một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng vị vua trẻ tuổi. Ngoài kia là một sinh vật đáng sợ và hung ác.
Arslan cầm thanh kiếm đã rời vỏ, hít thật sâu, rồi cẩn thận mở cửa.
Cửa sổ vỡ tung với một âm thanh chói tai. Arslan ngay lập tức né sáng bên, tránh trận mưa thủy tinh bắn vào người, đồng thời vươn tay bảo vệ mắt. Azrael phát ra một tiếng kêu dữ dội đầy đe dọa rồi xông tới một vật thể màu đên có kích thước bằng con người, đang nhảy múa điên cuồng trong không trung, va đập dữ dội với trần nhà và các bức tường.
"Bệ hạ!"
Jaswant mở cửa nhảy vào, bước nhân nhẹ nhàng nhưng thoăn thoắt như một chú báo, lập tức rút kiếm ra, sẵn sàng giết kẻ đột nhập ngay khi nhìn thấy.
Tuy nhiên, anh chàng cũng sững sờ vì không có cuộc đột nhập nào trên mặt đất cả, chỉ có trận chiến khốc liệt trên không. Lông của Azrael bay khắp nơi như những bông tuyết đầu mùa. Vật thể màu đen kỳ lạ định tóm lấy nó nhưng bị chiếc mỏ sắc nhọn của nó chống trả. Arslan quỳ một chân xuống sàn, tay cầm kiếm, sẵn sàng đỡ người bạn có cánh, nhưng tiếc rằng chàng không tìm được nơi nào để can thiệp.
Azrael bay ra ngoài qua ô của vỡ. Nó biết đánh nhau trong không gian hẹp thì mình sẽ gặp bất lợi.
Elam đang đi tuần trong sân ban đêm vào trước giờ ngủ thì nghe tiếng động lạ. Nhìn lên, anh thấy một bóng chim sải cánh giữa trời.
"Azrael?"
Vẻ mặt anh từ hoang mang chuyển sang kinh sợ. Elam vội cầm kiếm chạy lên.
"Bệ hạ có sao không?"
Anh định chạy tới phòng nghỉ của nhà vua nhưng khựng lại vì những âm thanh chói tai phát ra trên lầu. Những mảnh thủy tinh văng tứ tung dưới ánh trăng. Một bóng đen lớn hơn Azrael nhiều vay vút lên trời, nghe như âm thanh của ngàn con dơi đập cánh. Bay một lúc, cái bóng tung mình nhảy vọt lên cao. Nhìn nó có hình dáng giống như con người nhưng sau lưng là đôi cánh không ngừng vỗ, phát ra tiếng kêu đinh tai nhức óc.
Đôi tay dài của nó vươn ra, định tóm lấy Azrael. Động tác chú chim ưng lúc này có phần chậm chạp. Chim ưng vốn không giỏi chiến đấu vào ban ngày. Elam nhìn trận giao tranh trên không, không biết nên hỗ trợ Azrael trước hay xác nhận an nguy của Arslan. Cuối cùng, anh ưu tiên xác minh tình thế.
"Bệ hạ!"
"Elam đấy à? Hãy cẩn thận!"
Nghe tiếng Arslan, Elam đoán rằng vị vua trẻ vẫn bình an vô sự. Sau khi an tâm một phần, anh bắt đầu động não. Elam nhìn quanh, chộp lấy một hòn đá lớn trên mặt đất. Anh xoay cổ tay, ném hòn đá đi thật xa.
Con quái vật bị hòn đá đập vào lưng, vừa tức giận vừa kinh ngạc, quay đầu lại. Khi thấy Elam, hai mắt nó đỏ ngầu.
Đôi cánh đen của nó đập phạch phạch giữa trời đêm, lao xuống. Giữa cặp cánh của nó quạt ra làn gió mang mùi hôi thối khủng khiếp. Elam nhắm mũi kiếm của mình vào giữa cặp mắt đỏ. Tuy nhiên, con quái vật bay lên rất nhanh, tránh được đòn tấn công của Elam, sau đó lại lao xuống như một hòn đá rơi. Móng vuốt của nó nhấm vào cổ Elam. Anh nhảy sang bên, tránh đòn chí mạng nhưng mất thăng bằng và ngã xuống. Dẫu vậy, anh vẫn kịp vung kiếm ngăn đòn thứ hai của con quái vật. Sau khi kiếm và móng vuốt va chạm với nhau, nó lại lần nữa bay vút lên.
Lúc này, nhận được thông báo từ Jaswant, Narsus, Farangis, Kishward và Alfarid đã dẫn quân đến từ nhiều hướng trong cung điện.
"Haha, đó là lý do vì sao ta không thể rời khỏi Arslan bệ hạ. Theo bệ hạ không bao giờ cảm thấy buồn chán." Người đang vui vẻ cười này là anh chàng hát rong Gieve.
Quan thanh tra Gieve giật lấy ngọn giáo có mũi kim loạt gắn ở hai đầu từ tay một lính canh. Người ta tưởng anh sẽ phóng giáo vào con quái vật, nhưng lại đặt nó dưới chân và hét lên thách thức nó. Đôi mắt đỏ ngầu của sinh vậy lạ liền quay sang Gieve.
--------------------------
Con quái vật phát ra một tiếng rít kỳ quái, khiến người khác chỉ muốn bịt chặt hai tai, rồi lao thẳng về phía Gieve.
"Gieve, cẩn thận!"
Gieve vẫn bình tĩnh trước lời cảnh báo của Arslan. Anh buông hai tay, đứng im với nụ cười tự tin trên gương mặt đẹp trai.
Ngay khi móng vuốt của con quái vật chuẩn bị vồ lấy Gieve....
Thân thể nó lộn nhào trên không, những tiếng kêu đinh tai nhức óc vang vọng khắp cung điện. Người ta thấy một vật thon dài xuyên qua thân thể nó. Nó đập cánh điên cuồng nhưng không đủ sức bay lên. Cuối cùng, sinh vật lạ rơi xuống đất, vùng vẫy trong cơn ngắc ngoải, miệng không ngừng rền rĩ.
Elam không hề do dự, chạy tới chém đầu con quái vật bằng thanh kiếm. Hai chân và đuôi của nó giật liên hồi.
"Gieve, anh không bị thương chứ?"
Gieve kính cẩn đón Arslan đang chạy đến.
"Bệ hạ đừng lo, thứ duy nhất trên đời này có thể khiến thần bị tổn thương là lời từ chối của một cô gái xinh đẹp."
"Xem ra miệng lưỡi anh còn lanh lẹ lắm."
Arslan bật cười, nhưng rồi im lặng nhìn anh ta bằng cặp mắt ngưỡng mộ. "Ta chưa bao giờ thấy loại võ thuật này trước kia. Hóa ra tài năng của anh không chỉ có bắn cung và đấu kiếm." Khi ấy, Arslan trông thấy rõ ràng màn trình diễn tuyệt vời của Gieve. Anh ta đứng trước mặt con quái vật với hai bàn tay trống rỗng, chỉ có ngọn giáo nằm dưới chân. Ngay ghi nó đến gần, Gieve giẫm lên đầu ngọn giáo, khiến nó nảy dựng lên, đâm xuyên qua con quái vật từ bên dưới.
Những người lính cầm đuốc, đứng thành một vòng tròn sáng rực. Narsus và Farangis thấy xác con quái vật, liền kêu lên.
"Quỷ vượn có cánh...?"
Đó là một loài quái vật trong truyền thuyết, thân giống người và vượn, cánh giống dơi. Móng và răng của nó đều có chứa chất độc, có thể ăn mòn sinh vật sống. Nó thích ăn thịt người, đặc biệt là trẻ em và trẻ sơ sinh. Loài sinh vật này từng bị Vua thánh hiền Ramshid đày xuống thành phố dung nham dưới lòng đất, trở thành tùy tùng của Xà vương Zahhak. Đến khi xà vương Zahhak bị đánh bại, chúng cũng biến mất theo. Vì sao con quái vật hung ác này lại sống dậy và xuất hiện trong cung điện? Ai đưa nó tới đây?
"Có phải là Xà vương Zahhak....?"
Cái tên này vừa mới được nhắc đến đã khiến người ta lạnh buốt sống lưng. Các chiến binh ngơ ngác nhìn nhau. Elam, Jaswant, Gieve, Narsus, Kishward, Alfarid, Farangis, và ngay cả Azrael trên vai Arslan cũng khẽ rùng mình.
"Dù quỷ vượn có cánh vẫn còn tồn tại dưới lòng đất hay vùng biên giới đi nữa, chúng cũng không thể một mình xuất hiện ở chỗ đông đúc như kinh thành Ecbatana được. Chắc chắn kẻ chủ mưu vẫn ở đâu đó quanh chúng ta thôi. Không thể lơ là." Narsus nhắc nhở. Kishward gật đầu rồi sải bước đi trước. Anh cần huy động lính gác khám xét toàn bộ cung điện.
Tất cả các ô cửa sổ đều thắp sáng đèn, kể cả những khu vườn lớn. Thấy cung điện đột nhiên bừng sáng giữa đêm như thế, người dân Ecbatana thức khuya vô cùng kinh ngạc.
"Đúng là nhốn nháo hết cả chỉ vì một con chuột chũi."
Arslan cười khổ, và Narsus đáp.
"Đương nhiên, chuyện quốc gia đâu thể giải quyết dễ dàng. Nếu bỏ qua chuyện này thì những kẻ âm mưu sẽ càng thêm đắc ý. Phải triệt để...." Narsus còn dứt lời, một giọng nói đã vang lên.
"Tên hôn quân sẽ không được ngủ yên!"
Tất cả những người xung quanh đều nghe thấy. Elam, Gieve và Jaswant không thể xác định âm thanh phát ra từ đâu. Khoảng sân rộng lớn bao trùm trong sự thù địch, sẵn sàng bộc phát.
"Ta sẽ chui vào giấc mơ của Arslan hằng đêm, biến hắn thành mồi cho những cơn ác mộng. Hãy chờ đấy."
Jaswant quát lên cảnh cáo. Dù biết đối phương sẽ không ngoan ngoãn bước ra nhưng anh vẫn không nhịn được mà muốn chửi bới một trận. Lúc này, nữ tư tế Farangis đặt cây sáo pha lê lên môi, không nói một lời. Từ những ngón tay như ngọc phát ra giai điệu vô hình. Gieve ngây người nhìn bóng dáng cô, nhưng đôi mắt anh ta chợt sắc bén như một lưỡi dao. Anh lập tức vung kiếm. Con dao găm nhắm vào Farangis bị kiếm của Gieve đánh bay, rơi xuống đất với âm thanh loảng xoảng.
"Đằng kia!"
Elam và Jaswant cùng lao về hướng con dao phóng tới. Có bóng người di chuyển trong bụi cây, vừa nhảy lên vừa chửi rủa. Tiếng sáo pha lê mà người thường không nghe thấy lại khiến hắn đau đớn, buộc phải rời nơi ẩn náu. Gã né được lưỡi kiếm của Elam và Jaswant, chạy được chừng 10 gaz thì đó cũng là khoảng khắc cuối đời.
Thanh kiếm thép của hiệp sĩ đen chém đôi hắn từ vai trái đến thắt lưng.
Gã pháp sư chỉ cảm thấy cơn đau dữ dội như lửa đốt, rồi không tỉnh lại nữa. Phép ảo ảnh có cao siêu đến mấy cũng không giúp hắn tránh được những nhát kiếm nhanh như chớp, mà còn không có thời gian thi triển phép thuật. Gã pháp sư ngã xuống, máu lênh láng, chẳng trăn trối được lời nào.
Sau khi lau lưỡi kiếm dính máu, chàng dũng sĩ mới đến quỳ trước mặt Arslan.
"Thần đến muộn, không kịp hộ giá, xin bệ hạ thứ tội."
"Dariun, anh đến vừa đúng lúc."
"Đáng lẽ thần phải để hắn sống sót để lấy lời khai nhưng thần lại hấp tấp và giết chết hắn."
"Không, ngài sẽ không khai thác được thông tin nào đâu. Lũ quỷ này chỉ cần mở miệng nói sự thật, chúng sẽ mất mạng ngay." Người lên tiếng là nữ tư tế Farangis, cô đã cất cây sáo pha lê đi. Trong khi cô quan sát thi thể tên pháp sư, Gieve cũng nhìn cô bằng ánh mắt thích thú. Tuy vây, trên gương mặt thanh tú xinh đẹp của cô vẫn chẳng có biểu cảm nào.
"Tên này nói muốn lẻn vào giấc mơ của bệ hạ, khiến người chìm trong ác mộng triền miên."
"Vậy thì Farangis ta cũng sẽ đi vào khu vườn mộng mị của bệ hạ để tiêu diệt hắn." Lúc này, Farangis đắm mình dưới trăng, tựa như một bức tượng bằng đá sapphire.
"Nếu ta thành tư tế thì có thể làm những điều như vậy ư?"
Arslan vô cùng kinh ngạc, còn Farangis mỉm cười, lần đầu tiên cô cười trong tối nay.
"Thần thường không làm vậy, trừ khi cần thiết."
Gieve liền xen vào.
"Ôi, tiểu thư Farangis, liệu nàng có phải người đẹp hàng đêm xuất hiện trong giấc mơ và đọc cho tôi nghe những bài thơ tình? Dù khi ấy người đẹp luôn che một chiếc khăn lụa mỏng nên tôi không thể nào biết được dung mạo."
"Không thấy mặt thì sao anh biết đó là người đẹp?"
"Bởi tình yêu trong sáng không tì vết của nàng."
"Vậy thì chắc chắn là cô ta không tồn tại."
"Ôi lời nói dối mới sắc bén làm sao. Tiểu thư Farangis ngại ngùng đấy ư?"
"Tôi ngại mới lạ."
Mọi người cười ồ lên. Việc giải quyết hậu quả sau đó được giao cho Dariun và Narsus, trong khi Arslan gọi Farangis lên ban công tầng hai.
"Farangis này."
"Vâng, thưa bệ hạ."
"Từ năm ngoái tới giờ, cô luôn lo lắng chuyện gì vậy?"
Nữ tư tế xinh đẹp không thể trả lời ngay. Arslan chân thành nói, "Có lẽ ta không nên can thiệp quá nhiều, nhưng ta cứ băn khoăn mãi. Kể cả nghe chuyện của cô, ta cũng không thể giúp được gì. Nhưng biết đâu ta lại có thể san sẻ phần nào nỗi lo của cô. Nếu được, hy vọng cô bằng lòng cho ta biết. Không chỉ ta, Gieve cũng rất lo lắng."
Nghe những lời dịu dàng của vị vua trẻ, đôi môi đỏ mọng của Farangis hé mở.
"Cái lo lắng của anh ta khác với lo lắng của bệ hạ. Nhưng thần cũng thật có lỗi khi khiến người bận lòng."
"Farangis, chúng ta là bạn mà."
"Bệ hạ là vua một nước, chúng thần không dám nhận danh xưng đó."
"Không đâu, dù trên hình thức, chúng ta là quân thần, nhưng ta vẫn luôn coi các vị là bạn bè, chiến hữu. Cô, Gieve và những người khác đã cứu ta hết lần này đến lần khác, đưa ta lên ngai vàng, chia sẻ cùng ta gánh nặng. Nên cô cũng hãy để ta gánh vác một phần nỗi lo của cô."
Ánh trăng lặng lẽ trải trên ban công cẩm thạch. Cuối cùng, một giọng nói du dương cất lên.
"Có lẽ cũng đã lúc rồi. Thần vẫn luôn tìm thời điểm thích hợp để nói ra điều này." Thế là Farangis bắt đầu kể.
---------------------
"Khi đó, tuổi thần còn nhỏ hơn Alfarid. Thần chỉ biết, nhắc đến ánh sáng là nắng, nhắc đến gió là gió xuân...." Triều đại Andragoras đệ tam, nhà vua hùng mạnh đến nỗi nơi nơi đều biết. Kinh đô Ecbatana vô cùng thịnh vượng, trở thành trung tâm giao lưu kinh tế và văn hóa của các quốc gia trên Đại lục vương lộ. Dù đôi khi vẫn xảy ra chiến tranh trong và ngoài nước nhưng quyền lực và uy tín quốc gia Pars không mảy may suy chuyển. Ai cũng nghĩ rằng sự hưng thịnh ấy sẽ kéo dài thật lâu.
Nhà vua vừa có con nối dõi, liền xây dựng một ngôi đền thờ thần Mythra.
Cha mẹ Farangis qua đời khi cô còn nhỏ. Cha cô là hiệp sĩ, để lại ít nhiều tài sản sau khi mất. Ông dành một nửa tài sản cho con gái, nửa còn lại hiến dâng cho đền, cầu xin đền nuôi nấng cô bé. Thế là Farangis từ nhỏ đã sinh sống trong đền thờ.
Ngôi đền nằm ở một thị trấn nhỏ tên Kuzestan, phía đông kinh thành Ecbatana, phía tây thành Peshawar và phía bắc dãy núi Niruz. Những ngọn đồi trùng điệp bao quanh một vùng đất đai màu mỡ với rừng và đồng lúa ở khắp nơi. Vào mùa đông, những cơn gió mùa ẩm ướt từ phương bắc thổi về, tạo thành mây tuyết trên đỉnh núi, cho nên khi ấy sẽ có hai ba đợt tuyết lớn, cản trở giao thông. Trong đền có trường học, vườn cây, đồng cỏ, sân tập võ, bệnh xá, cùng nhiều công trình khác dành cho các nam nữ tư tế.
Farangis tu tập từ nhỏ, cố gắng hết sức để trở thành tư tế phụng sự đền thờ. Ngoài ra, cô luyện tập võ thuật để tự vệ, đạt được thành tích xuất sắc trong mọi bộ môn như cung, kiếm và cưỡi ngựa. NGoài ra, tư tế còn phải giàu tri thức, đôi khi sẽ xuống làng dạy học, chữa bệnh, hướng dẫn người thân trồng cấy, đôi khi làm cố vấn cho quan chức địa phương. Vì thế, Farangis có hiểu biết cả về y học lẫn thảo dược. Dù không phải chuyên gia nhưng kiến thức chung của cô về địa lý, lịch sử, toán học, thơ ca, may vá, chăn nuôi, làm đồ gốm đều rất đáng nể.
Nữ tư tế bị cấm lấy chồng sinh con, đền thờ coi đó là luật lệ. Nhưng nếu tu sĩ đó đã từ bỏ đền thờ và quay lại cuộc sống thế tục thì có thể yêu đương, kết hôn thoải mái. Một khi hoàn tục, họ sẽ đối mặt với hệ thống giai cấp như quý tộc, hay dân thường. Nhưng đó không phải bức tường không thể phá vỡ. Có lúc, một phụ nữ xuất thân nông dân nhưng được vua sủng ái, sinh ra thái tử thì sẽ thành hoàng hậu. Anh em của cô ấy đương nhiên cũng thành vương tôn quý tộc.
Với con trai, hầu hết họ đều ra chiến trường, mong lập công để được thăng từ dân thường lên chiến binh, hoặc là trau dồi kiến thức để trở thành thầy tu. Vì vậy, trong những tư tế trẻ cống hiến hết mình cho đền thờ, không chỉ có những người một lòng sùng đạo, còn những kẻ tham vọng đầy mình.
Farangis 17 tuổi lần đầu gặp Aghrias, 20 tuổi, một thanh niên cao lớn, đẹp trai với mái tóc đen, cặp mắt nâu. Dù sinh ra trong gia đình dân thường nhưng hắn ta có tài học xuất chúng, khả năng hùng biện nên muốn trở thành tư tế để đạt được công danh. Hắn và Farangis gặp gỡ tại đền thờ rồi yêu nhau.
Aghrias có đứa em trai tên là Gurgin, bằng tuổi Farangis và cũng đang theo học tại đền. Trong mắt Gurgin, anh trai hắn không khác nào một vị thần chói sáng. Từ ngoại hình, tài năng đến người yêu như Farangis, tất cả đều là hình mẫu Gurgin khao khát.
Gurgin thường xuyên tranh luận với anh trai mình. Farangis nghĩ cậu ta rất hiếu học nhưng luôn bị anh bác bỏ.
"Dù Vua thánh hiền Ramshid có vĩ đại đến mấy, sau cùng cũng bị Xà vương Zahhak đánh bại. Cho nên cái chúng ta cần là sức mạnh. Chỉ cần có sức mạnh, kẻ ác cũng thắng."
"Em không hiểu à, sức mạnh của kẻ ác không thể tồn tại lâu. Bằng chứng là sau đó Xà vương cũng bị Vua anh hùng Kai Khosrow tiêu diệt. Sau này đừng tùy tiện nhắc đến Xà vương nữa, cẩn thận kẻo bị thần linh trừng phạt đấy." Những cuộc cãi vã đại khái như vậy.
Một năm sau, chưởng tư tế lên kế hoạch chọn ra 3 tư tế trẻ, cử đến đền thờ hoàng gia ở kinh đô Ecbatana để tu tập. Những ai đã tu tập ở đền thờ hoàng gia 3 năm có thể trở thành tư tế cấp cao của đại điện, được phép vào cung làm lễ, thăng chức thành thư ký triều đình, hay quay về ngôi đền trước kia để tiếp tục phụng sự. Phó chưởng tư tế Aghrias tin chắc mình được chọn, và mọi người cũng nghĩ thế. Nhưng cuối cùng, ba người được chọn là những người có xuất thân quý tộc
"Hóa ra ngay cả trong đền thờ cũng dựa vào xuất thân mà phân biệt đối xử, vậy bao nỗ lực của ta có ý nghĩa gì? Thật lãng phí thời gian." Aghrias bực bội nên vắng mặt buổi tiễn ba tư tế đến đền thờ hoàng gia. Hành động này bị các tư tế khác chỉ trích, mắng mỏ. Được Alfarid an ủi và khuyên can, cuối cùng hắn mới phấn chấn hơn một chút. Không lâu sau, có tin từ kinh đô báo về. Xe ngựa của các tư tế gặp nạn trên đường. Hai người bị thương nhẹ, một người chết. Sau tang lễ, một tư tế khác cũng được cử đi thay. Lần này, Aghrias tự tin sẽ đến lượt mình, nhưng lại là một quý tộc nữa được chọn. Chính bởi hành động vắng mặt trong buổi lễ hiến hắn ta bị đánh giá thấp.
Sự thất vọng của Aghrias biến thành tuyệt vọng. Hắn ngày ngày uống rượu, gây rối, tranh cãi với người bên ngoài, chẳng nhưng làm bị thương người khác, còn làm bị thương chính mình. Hắn uống rượu trong lớp học, khi say thì bới móc khuyết điểm, không hoàn thành công việc được giao, bỏ bê những bài luận, tóm lại là tính cách thay đổi hoàn toàn.
Thực ra vẫn có những người đồng cảm với Aghrias, động viên hắn ta nhưng bản thân hắn lại từ chối thiện chí của người khác.
"Ngươi rõ ràng là ghen tị với tài năng của ta, cho nên đừng có nói những lời giả dối ấy nữa. Từ lâu ta đã nhìn thấu những suy nghĩ bẩn thỉu đằng sau khuôn mặt đạo đức giả của ngươi. Ngươi mới đáng bị thương hai." Những người đó thất vọng rồi dần tránh xa Aghrias, nghĩ bụng, "Tên này hỏng thật rồi." "Mặc kệ nó đi." Một tháng sau, bên cạnh Aghrias chỉ còn lại hai ba người bạn, Farangis và Gurgin, nhưng hắn vẫn không chút ăn năn, tiếp tục uống rượu tìm quên.
Kết quả là đền thờ nhận được giấy đòi nợ từ một kỹ viện, khiến các tư tế vô cùng sốc. Sau khi tìm hiểu, họ phát hiện ra Aghrias đã lấy danh nghĩa tư tế của mình, ăn quỵt rất nhiều đồ ăn và rượu. Đền thờ quyết định trục xuất hắn. Farangis đã tìm đến những vị tư tế cấp cao cầu xin : "Hãy cho anh ấy một cơ hội để sửa chữa sai lầm."
Dù được tha thứ một lần nhưng Aghrias vẫn không vui.
"Tất cả là tại cái xã hội phân biệt giai cấp ngu ngốc này. Những người tài năng như ta lại không được ai đoái hoài, cả đời chỉ có thể chôn vùi trong xó xỉnh. Thật đáng nguyền rủa!" Hắn đổ lỗi cho xã hội, nhưng lại không có hành động nào để cải thiện nó, cũng không giúp đỡ những người chịu chung cảnh ngộ bị đối xử bất công như mình. Hắn than trách số phận, còn bản thân lại không chịu cố gắng.
Nếu hắn chịu thừa nhận mình không đủ khả năng vượt qua rào cản giai cấp thì sẽ dễ dàng hơn, đằng này lại để lòng tự trọng dày vò mình. Ngoài, ra Gurgin cố tình chỉ trích các tư tế khác để khiến anh mình yên tâm nhưng vô tình gây thêm áp lực cho hắn. Farangis không chịu đựng nổi nữa và quyết định nói ra tất cả.
"Ta cũng nghĩ xã hội phân chia giai cấp này là thối nát. Nhưng chàng đâu cần phải trở nên nổi bật. Việc tu thân dưỡng tính cũng rất có ý nghĩa. Hãy tìm một ngôi làng bình yên, dạy trẻ em đọc sách, hành nghề y cứu đời. Miễn chàng có lòng như thế, ta sẵn sàng theo chàng."
"Farangis, nàng muốn ta sống như một con chó đi lạc thế sao?"
Aghrias hét lên rằng hắn phấn đấu điên cuồng để giành chiến thắng chứ không phải để chịu nỗi thất bại tủi nhục này. Farangis không bao giờ nhắc lại nữa. Chuyện tiếp theo còn tồi tệ hơn khi các tư tế trong đền công nhận năng lực của Farangis còn tốt hơn Aghrias. Dù là khả năng võ thuật hay kiến thức trừ tà, cô đều vượt trội. Đặc biệt là khả năng chữa trị cùng tài bắn cung của cô tiến bộ vượt bậc, nhận được sự tôn trọng của mọi người. Cô được chưởng tư tế khen ngợi, nhưng Aghrias lại khôg vui khi người yêu của mình đạt được thành tựu.
"Đúng, nàng thật tuyệt vời. Nàng xinh đẹp như thế, dù là chưởng tư tế hay là các tín đồ đề không thể cưỡng lại được sự cám dỗ của nàng. Chỉ cần nàng nở nụ cười, họ sẽ tranh nhau tìm đến. Ta thật sự ghen tị với nàng." Những lời này chẳng những xúc phạm Farangis mà hắn ta còn tự cắm sừng cho mình. Farangis nhìn vào mắt kẻ nghiện rượu, cảm thấy hoàn toàn bất lực. Trước mặt cô là một gã vô phương cứu chữa, một gã hèn hạ trốn tránh sự thật, một kẻ chỉ có thể dùng nỗi đau của người khác để an ủi bản thân.
"Đừng tới đây nữa."
Aghrias nói vậy, và Farangis làm theo. Nhưng cô không bỏ rơi hắn mà chỉ nghĩ hắn cần thời gian để bình tĩnh lại. Trong thời gian này, nữ tư tế càng lúc càng bận rộn với việc tu luyện của mình.
Không lâu sau, một tư tế cấp cao từng buộc tội và chỉ trích thẳng mặt Aghrias đột ngột qua đời sau bữa tối. Người ta phát hiện trong rượu của ông ta có thuốc độc. Thế là Aghrias, người thường xuyên gây sự với ông ta bị nghi ngờ đầu tiên.
"Ta vô tội. Nếu ta thật sự muốn giết hắn thì đã chẳng dùng biện pháp lộ liễu như thế." Aghrias khẳng định. Dù đó là sự thật nhưng tất cả những lời nói và hành động của hắn từ trước đến giờ đã khiến người khác mất niềm tin, vô tình mang tai họa cho hắn. Các tư tế chịu trách nhiệm xử lý vụ án có sẵn thành kiến với Aghrias, bản thân hắn còn tức giận và không chịu hợp tác, cuối cùng hắn bị giam trong nhà tù của đền thờ.
Vì Aghrias vẫn là thầy tu nên các quan chức địa phương không có quyền xử phạt, phải chờ tư tế thượng phẩm xét xử. Hắn sẽ được áp giải đến kinh đô Ecbatana trong một chiếc xe tù.
Farangis bỏ ra 500 đồng tiền từ số tài sản thừa kế của mình, đưa nó cho Aghrias vì cô sẽ cần số tiền ấy khi buổi xét xử diễn ra.
"Ta sẽ đến kinh đô trước ngày xử án. Chàng phải kiên nhẫn chờ ta." Farangis nói. Aghrias cầm lấy túi tiền và gật đầu nhưng đôi mắt không có sức sống. Farangis nhìn chiếc xe áp giả Aghrias rời đi từ cửa sau ngôi đền.
Và đó là lần chia cắt vĩnh viễn.
Trước khi đến được kinh đô, Aghrias đã dùng hết 500 đồng vàng ấy để hối lộ quan chức phụ trách áp giải mình, chuẩn bị chạy trốn. Tuy nhiên, không phải quan chức nào cũng ưa nhận hối lộ. Hắn bị tố cáo ngay sau khi trốn thoát. Aghrias tuyệt vọng, rơi từ trên vách đá xuống vực sâu, gãy cổ, vỡ đầu, chết ngay tại chỗ.
Khi hay tin, Farangis vô cùng bàng hoàng, còn Gurgin thì phẫn nộ. Điều tồi tệ hơn là sau đó, kẻ sát nhân thực sự mới bị bắt, chứng minh Aghrias vô tội.
"Có phải thần Mythra đã không muốn cứu anh trai ta không? Ngài không thể làm được gì? Hay ngài chỉ là kẻ lười biếng? Ta không còn tin vào công lý nữa. Ta không muốn làm thầy tu nữa. Ta muốn những kẻ hãm hại anh trai ta phải trả giá." Dù Farangis khuyên nhủ thế nào, hay các thầy tư tế cố gắng trấn an, Gurgin vẫn không nguôi ngoai được. Một đêm nọ, cậu ta trốn khỏi đền. Không những thế, người ta phát hiện sau khi cậu ta rời đi, bức tượng thần Mithra bị vấy đầy máu chó. Vị tư tế phụ trách trông coi kho bạc của đền bị đánh một gậy vào đầu, trọng thương. Hàng trăm đồng tiền vàng bị đánh cắp. Còn trên bàn làm việc của chưởng tư tế có xác một con chó đã bị cắt cổ.
Người ta tuyên bố trục xuất Gurgin khỏi đền thờ và truy lùng cậu ta. Farangis bị bắt đi thẩm vấn nhưng rồi họ cũng phải thả cô ra. Thực ra chính Farangis cũng không biết Gurgin đã đi đâu, nhưng các tư tế vô cùng phẫn nộ trước hành vi báng bổ thần linh cực đoan này, khiến Farangis bị những người khác ghét bỏ.
Không lâu sau, có tin phát hiện một kẻ lang thang, nghi ngờ là Gurgin. Đền thờ cử 10 tư tế biết võ nghệ cùng 50 binh sĩ đến định bắt hắn. Con Vài người nói rằng đã trông thấy Gurgin đến núi Demavand một mình. Dù ai nấy đều chùn bước khi nghe đến tên địa điểm, nhưng họ vẫn phải truy bắt.
Farangis đã xin cho Gurgin được quay lại, nhưng không một ai chấp thuận. Sau khi đội truy bắt rời đền, Farangis đến gặp chưởng tư tế, nói rằng mình không thể cứu Aghrias, cũng không thể ngăn cản Gurgin, gây ra quá nhiều rắc rối cho mọi người nên xin được rời đền.
"Người chưa từng trải qua thất bại thì không thể trở thành một tư tế thực sự, bởi người như thế không thấu hiểu được trái tim những người phải cầu đến thần thánh mong manh nhường nào. Giống như kẻ chưa từng phạm sai lầm thì không thể tha thứ cho lỗi lầm của kẻ khác, bởi hắn đâu đặt mình vào hoàn cảnh đối phương được. Với tư cách là tư tế, người duy nhất con có thể cứu là bản thân mình. Aghrias phải tự mình đứng lên, chuyện đó không liên quan đến con." Chưởng tư tế trả lời như vậy. Những lời sáng suốt và dịu dàng ấy khiến Farangis bật khóc. Giờ đây, cô quyết tâm sẽ trở thành nữ tu chân chính, nguyện dùng cả cuộc đời phụng sự thần Mithra.
Còn chuyện gì xảy ra với Gurgin, Farangis vẫn luôn tự hỏi.
Một tháng sau, đội truy bắt quay về nhưng chỉ còn lại 20 người. Trông họ như già đi cả chục tuổi vì nỗi sợ hãi, từ chối trả lời bất cứ câu hỏi nào. Từ đó về sau, Farangis không còn gặp lại Gurgin nữa. Mái tóc ngắn của cô cũng dài ra, trở nên xinh đẹp lộng lẫy như hiện giờ.
------------------
"Xin lỗi vì đã lãng phí thời gian của bệ hạ."
Nói rồi, Farangis cúi đầu. Arslan thở dài. Chàng không ngờ một người luôn mang dáng vẻ lãnh đạm với nhân thế, tách biệt khỏi mọi vui buồn sướng khổ trên nhân gian lại có quá khứ gian truân như vậy. Không, có lẽ chính vì quá khứ ấy nên Farangis mới phấn đấu để trở nên xuất sắc như ngày hôm nay. Cô tập luyện võ thuật, trau dồi kiến thức, tu dưỡng nhân cách, tất cả những điều ấy không đến trong ngày một ngày hai mà là cả một quá trình rèn luyện và đào tạo để trở thành tư tế. Farangis đứng dậy, đã không còn cảm thấy thất vọng hay chán nản về những thất bại của mình nữa. Cô lấy lại sức mạnh bằng chính sự mềm mại trong tâm hồn.
"Farangis, cảm ơn đã nói cho ta nghe những chuyện này. Ta vốn hy vọng có thể làm gì đó để giải quyết vấn đề của cô nhưng ta đã quá kiêu ngạo rồi. Trái lại, ta còn phải học hỏi cô nữa." Mỗi người đều có cách sống riêng, không ai có thể dạy bảo ai làm gì. Tuy nhiên, cách sống của nhà vua lại ảnh hưởng rất lớn đến nhân dân và đất nước. Khi vua một nước là kẻ hèn hạ, đố kỵ, luôn đổ lỗi cho người khác về thất bại của bản thân thì không thể cai trị được, sẽ chỉ đào hố chôn mình, như Aghrias vậy.
Vi vua trẻ nhớ lại lời của Narsus.
"Trên đời này không tự nhiên mà có vua. Người ta trở thành vua nhờ sự tự nhận thức. Triều thần sẽ không bao giờ bỏ rơi vị vua có được sự giác ngộ ấy." Một vị vua mà bị các thuộc hạ của mình bỏ rơi thì sẽ đau buồn biết bao, cũng như một người bình thường mà mất hết bạn bè, người thân vậy. Aghrias gục ngã lần đầu vì bức tường quá cao của hệ thống giai cấp, ngã lần hai là do hắn đi không vững, cuối cùng hắn vẫn là kẻ thua cuộc.
"Một cuộc trò chuyện với người đáng giá 10 năm đọc sách."
Những lời cảm tạ đầy tôn kính của Farangis xuất phát từ tận đáy lòng.
"Nhân tiện, bệ hạ có còn nhớ sự cố đêm lễ hội hồ nước không?"
"Ồ, vụ lật thuyền trên hồ xảy ra năm ngoái phải không?"
"Khi đó thần đã gặp Gurgin."
"....Hả?"
Arslan sững sờ, nhìn nữ tư tế đầy cảm thông.
"Cậu ta đã chọn lựa con đường tà đạo. Thần nghĩ có lẽ đó là kết quả tất yếu thôi."
"Farangis, cô không sai. Chính anh ta lựa chọn lối đi đó. Đừng dằn vặt bản thân về những sai lầm của người khác. Cô đã làm hết sức rồi." Vị vua trẻ chân thành nói.
Một lúc sau, Farangis rời đi. Ra đến sân sau, cô bắt gặp một anh chàng nhẹ nhàng bước tới.
"Tiểu thư Farangis yêu dấu, nếu nàng mệt, xin để tôi đưa nàng về phòng. Những con quái vật có thể sẽ lại xuất hiện đâu đó."
"Có một con ngay trước mặt tôi."
"Hahaha, nàng thật biết nói đùa. Tôi là tín đồ trung thành của nữ thần Ashi, nhiệm vụ của tôi là bảo vệ người đẹp khỏi nanh vuốt của kẻ ác."
"Tôi thấy anh chỉ đang lãng phí thời gian."
"Không đâu, tiểu thư Farangis. Nàng không thể yêu nếu như sợ mất thời gian, cũng như không thể sống nếu sợ chết vậy."
"Ồ, anh nói cũng có lý."
Trước phản ứng của Farangis, Gieve tỏ vẻ ngạc nhiên.
"Chuyện gì vậy Gieve?"
"À không có gì. Tôi biết cô Farangis lâu như vậy rồi nhưng đây là lần đầu tiên cô khen ngợi tôi."
"Ra vậy. Đây là lần đầu tiên, cũng là lần cuối. Sau này sẽ không hiệu quả nữa đâu."
"Cô Farangsis, tình yêu mà phải tính toán đầu đuôi thì không còn là tình yêu thuần khiết nữa."
"Tôi không có hứng thú với một gã đàn ông đầy vết nhơ trên mình." Farangis lẳng lặng bước đi. Gieve vẫn kiên nhẫn đuổi theo đến khi cánh cửa phòng nữ tư tế đập thẳng vào mặt.
Những người lính dọn xác gã pháp sư và con quỷ vượn có cánh trong vườn đang cố quét sạch những mảnh thủy tinh vương vãi. Dariun và Narsus giám sát không rời.
"Narsus, chuyện này có liên quan đến vụ trộm mộ tiên vương không?"
"Đợt lễ hội vào mùa thu cũng xảy ra chuyện. Hai việc này có lẽ đều là điềm gở."
"Bọn chúng định từng bước siết cổ chúng ta."
Hai người rời mắt khỏi cái xác vừa được đưa đi, ngước mặt nhìn trời đêm. Những vì sao bị ánh đèn khắp nơi trong cung điện tre khuất, trông chỉ lác đác vài điểm. Dariun mở miệng, cố gắng làm rõ tình hình.
"Kể từ khi Arslan bệ hạ lên ngôi, Pars chưa gặp phải thất bại nào trong các cuộc chiến với ngoại bang. Những cuộc cải cách diễn ra thuật lợi, không có trở ngại lớn. Có lẽ điều này khiến lũ pháp sư kia lo ngại, muốn vội vàng ra tay."
"Đúng vậy. Dù không thể bỏ qua nhưng giờ ta vẫn chưa có cách nào đối phó. Có khi chưa bị siết cổ chết đã chết vì trúng độc rồi. Đừng quên Turk và Mirs còn đang rình rập." Narsus gật đầu khi nghe Dariun nói nhưng vẫn hơi cau mày.
Cuối cùng, vị cựu lãnh chúa Dailam được mệnh danh là "có cả trăm vạn quân trong đầu" lên tiếng.
"Con quỷ vượn có cánh kia là quái vật, có lẽ đã được hồi sinh bằng phép thuật. Ban đầu ta nghĩ phép thuật đã biến mất khỏi thế gian sau khi Xà vương Zahhak bị phong ấn dưới lòng đất. Nhưng có vẻ như vẫn còn những kẻ khác biết về chúng. Ngươi nghĩ sao, Dairun? Ta tự hỏi ai đã hồi sinh nó? Đó có phải mục đích cuối cùng của đối phương không, hay chúng chỉ muốn dùng con quỷ vượn ấy để thử nghiệm trước khi hồi sinh một kẻ nào đó tà ác hơn?"
Dariun và Narsus đều hạ giọng. Họ là trọng thần của vương quốc, có trí tuệ và sức mạnh hơn người, nhưng cũng không dám nói cái tên đó một cách tùy tiện.
Rồi Elam xuất hiện với bước chân lẹ làng.
"Ngài Narsus, bệ hạ đi nghỉ rồi. Ngài Jaswant và tôi sẽ canh gác ngoài cửa đêm nay."
"Thật sao? Ngươi vất vả rồi."
Narsus nhìn Dariun gật đầu. Anh định đợi đến khi trời sáng sẽ thảo luận. Chỉ dưới ánh sáng ta mới nghĩ ra cách đối phó với bóng tối.
Danh sách chương