Ngày 12 tháng 7 năm 325 lịch Pars.
“Mùa chay giữa hè” đã gần kết thúc. Ở những khu vực quanh kinh đô Ecbatana, không khí cuối hè tràn ngập ngay khi vào tháng 8. Quán rượu giảm giá hết cỡ đến bán hết hàng trước khi trở lạnh. Các loại trái cây thu như lê và nho bắt đầu xuất hiện ngoài khu chợ.
Trong thời gian này, hai tướng lĩnh Kubard và Merlane vẫn đang bận rộn giải quyết hậu quả trận chiến ở pháo đài Peshawar.
Hai tướng Gurazeh và Tus đến cảng Gilan bằng đường thủy ngày 20 tháng 7. Họ ở đó 5 ngày để chuẩn bị đủ vật tư, chất lên những xe hàng lớn và vận chuyển đến Ecbatana bằng đường bộ, dự kiến ngày 10 tháng 8 sẽ đến nơi.
Vì vậy, ngày 27 tháng 7, ở kinh đô chỉ có 11 vị tướng gồm Kishward, Dariun, Narsus, Elam, Farangis, Alfarid, Jaravant, Jimsa, Jaswant, Isfan và Gieve.
11 người này đã có cuộc gặp gỡ hỏi thăm nhau vội vàng cuối tháng 7. Sau khi gửi lời chào, người nọ bắt chuyện với người kia, nội dung na ná giống nhau, cho đến khi có người nói cứ thế này thì mất cả ngày.
“Chúng ta tập trung lại nhé. Ngày 30 tháng này sẽ có một cuộc họp để báo cáo những tin tức quan trọng.”
Kishward truyền đạt với các tướng lĩnh vào ngày 27 tháng 7. Dù chỉ một câu nói ấy thôi nhưng anh phải chạy đôn chạy đáo khắp nơi để chuyển lời, rồi cũng phải nhận về vô số lời oán thán của các vị ấy nữa. Khi đến xin phép vua Arslan, với khí chất hào sảng thường thấy, vị vua trẻ tuổi lập tức hứa.
“Ngài có thể sử dụng bất cứ căn phòng nào trong cung điện.”
Có một vài phòng trong cung điện được chuẩn bị riêng cho các cuộc họp, hiện giờ tất cả đều trống.
“Triều đình” Arslan có quy mô không bằng 1/10 thời kỳ vua tiền nhiệm Andragoras đệ tam. Mà ngay bản thân Andragoras đệ tam cũng không phải một vị vua xa hoa rồi. Những lúc hoàng hậu Tahamine cùng những người hầu không có mặt, ông thậm chí còn không yêu cầu thắp đèn bên cửa sổ.
Nhưng Arslan thì quả thực tằn tiện đến một trình độ khác. Chàng cảm thấy một phòng ngủ, một phòng tắm và một phòng làm việc là đã đủ lắm rồi. Sau khi lên ngôi, chàng cho khôi phục lại một phần cung điện. Dù sao cũng không thể để nó hoang phế, hơn nữa việc tái thiết cũng tạo thêm cơ hội việc làm cho người dân đang khốn khó lúc bấy giờ.
Cho đến giờ, tể tướng Lucian đã hàng chục lần khuyên răn vị vua trẻ.
“Nếu không trang trọng được bằng vua Rajendra nước láng giềng thì các sứ thần ngoại quốc sẽ nghĩ sao?”
Ngay cả Rajendra đị nhị của Sindhura, người được nhắc đến trên này, cũng tận hưởng cuộc sống xa hoa trọn vẹn nhưng chưa từng vượt quá giới hạn của một vị vua. Suy cho cùng, làm gì cũng phải tùy tình hình tài chính quốc gia.
Nghe lời khuyên của Lucian, Arslan chỉ biết cười gượng.
“Nếu ta mà sống xa xỉ như Rajendra thì chắc ta sẽ không còn là mình nữa.”
“Rồi người sẽ quen thôi. Nếu bề trên như người sống quá giản dị thì bên dưới cũng không dám thoải mái.”
Có lẽ đúng vậy thật. Dù Arslan gật đầu nhưng hóa ra cuộc sống đơn giản lại phù hợp với tính cách của chàn ghơn. Chàng không thích bị giam trong cái lồng vàng, muốn được tự do bay nhảy, khiến cho Lucian và Elam cực kỳ lo lắng.
Nhân tiện, nói về chức danh chính thức của Elam, là “Đội trưởng đội cận vệ.” Vào thời hoàng kim của quân đội hoàng gia cũ, chức này chỉ huy từ 5 ngàn đến 1 vạn quân, nhưng thực tế hiện nay, Elam chỉ là người hầu chuyện nhà vua, dưới trướng anh ta chỉ có khoản 100 người.
Ngày 27 tháng 7 lịch Pars cũng là ngày Hilmes tuyên bố lên ngôi ở Mirs. Không ai ở kinh đô Ecbatana biết tình hình vương quốc Mirs lúc này, họ chỉ cảm nhận được sự ồn ào phía bên kia biên giới.
Hilmes quả thực đã nắm quyền cai trị Mirs chỉ sau một đêm, và cũng không hay biết tình hình ở Pars. Đôi bên đều chẳng khác gì nhau.
Điều đầu tiên Arslan được thông báo là cuộc chiến chống lại đội quân quỷ dữ ở núi Demavant và thành Peshawar. Người đưa tin chính là Sứ giả thần chết Azrael.
Azrael đáp xuống sân thượng cung điện sáng ngày 5 tháng 7. Dù những bức thư do tướng Kubard đích thân viết nhưng văn chương của ngài marzban một mắt không hề dài dòng. Chỉ qua ba câu, Arslan đã nắm được tình hình. Trận tấn công và phòng thù vô cùng gian khó.
Muốn biết chính xác những gì đã xảy ra thì phải chờ những vị tướng quay trở lại. Tuy nhiên, trớ trêu là chiều ngày 5 tháng 7, sứ giả từ Solymania cũng đã đặt chân đến kinh thành.
Người đưa thư khẩn toàn thân đầy mồ hôi và bụi bặm, thậm chí át cả mùi rượu rue anh ta xức lên người. Sau khi hớp vội hớp nước, anh ta liền nói.
“Xin lập tức đưa quân cứu viện!”
“Đừng lo, ta đã chi viện cho Peshawar rồi.”
Nghe tướng Kishward nói, anh ta chỉ kịp tạ ơn trời rồi lăn ra bất tỉnh.
Arslan liền gọi Kishward, Dairun, Narsus đến và nói.
“Thật đáng buồn khi nhiều người đã hy sinh nhưng ta hiểu Kubard đã làm hết sức. Dù sao đi nữa, ta cũng không tin có ai chỉ huy trận đánh tốt hơn Kubard. Bản thân Kubard đã chủ động xin lãnh phạt do đê quá nhiều binh lính thiệt mạng nhưng ta vẫn quyết định sẽ khen thưởng cho anh ấy.”
Ba vị tướng đều nhất trí với nhà vua, đồng thời khẳng định những gì Kubard làm xứng đáng với phần thưởng này. Narsus lên tiếng.
“Công lao của ngài Kubard không chỉ là kiên trì bảo vệ thành Peshawar. Phải nói, khi đối mặt với Ilterish, sự quyết tâm ấy thôi đã rất quan trọng rồi.”
Dairun nghiêng đầu.
“Đó có được coi là thành tích không?”
“Là một thành tựu lớn.”
“Chà, Kubard quả là một tấm gương cho các chiến binh. Ta tin rằng điều này cũng thể hiện quyết tâm của quân đội chúng ta. Tuy nhiên, ta không nghĩ Ilterish sẽ chịu từ bỏ Peshawar chỉ vì thế đâu. Hắn vô cùng ngoan cố, nhất định sẽ tìm cách chiếm Peshawar bằng mọi giá.”
“Vậy thì tốt.”
Narsus nói rồi bật cười.
Tên này lại âm mưu gì nữa đây, Arslan, Dairun, Kishward không hẹn mà cùng nghĩ, nhưng họ không hỏi thêm. Bởi họ biết rằng khi cần, người này nhất định sẽ nói, còn khi thời cơ chưa đến, anh ta sẽ không hé răng nửa lời. Dù không biết âm mưu ấy xảo quyệt ra sao, họ vẫn tin trí tuệ của Narsus sẽ ủ mưu ra một kế hoạch hoàn mỹ nhất.
“Ta cảm thấy lần này không nên để Azrael đưa tin nữa mà ta sẽ cử một sứ giả đưa tin, thông báo nội dung chúng ta bàn bạc ở đây cho Kubard. Việc soạn tin có thể nhờ ngài được chứ, Narsus?”
“Vâng thưa bệ hạ. Sớm mai thần sẽ gửi sứ giả đi.”
“Kể cả như vậy thì….”
Arslan nhìn bầu trời qua ô cửa sổ. Trên tầng không xanh thẳm, những đám mây hồnh thưa thớt vắt ngang.
“Theo báo cáo của Jimsa và Gieve, quả nhiên Ilterish của Turan vẫn còn sống.”
Bốn người ngồi quanh tấm bản đồ địa lý xứ Pars. Tất cả các khu vực lân cận biên giới Turan cũ đến Peshawar và Badakhshan đều được đánh dấu bằng đường màu đỏ. Như vậy, họ có thể dùng đường thẳng, kết nối những điểm Iltersish từng xuất hiện.
Điều đó nghĩa là Ilterish liên tục thực hiện các hoạt động từ nam đến bắc, và cả miền đông của Pars.
“So với Gieve và ta, tên Turan này còn nhanh nhẹn hơn.”
Narsus nói đùa.
“Đúng vậy.”
Dariun khẳng định chắc nịch. Cả Arslan và Kishward đều bật cười nên Narsus tức mà không nói gì được.
“Nhưng hắn lăn lộn như thế mới chứng tỏ hắn là tên ngốc.”
Dariun bối rối hỏi.
“Vậy giờ hắn ở đâu?”
Kishward lẩm bẩm, ánh mắt bốn người đều dừng ở một điểm trên tấm bản đồ. Nó nằm ngay trên đường màu đỏ nối liền bắc, nam ở phía đông của Pars. Ilterish trốn đâu đó dọc con đường này.
Kishward tiếp tục.
“Ilterish vừa thiện chiến, vừa xảo quyệt, vừa giỏi cầm quân. Hắn sẽ là đối thủ đáng gờm trên chiến trường đấy.”
Đầu tiên là Jimsa, sau đó 7 vị tướng dũng cảm của Pars là Kubard, Tus, Merlane, Jaswant, Isfan và Gieve đều chiến đấu chống lại hấn mà vẫn không thể tiêu diệt được.
“Hắn trốn càng lúc càng giỏi, chắc là tu luyện cực lắm đấy.”
Narsus đáp lại lời mỉa mai của Dariun.
“Tuy nhiên, Ilterish cũng có nhược điểm.”
“Đó là?”
“Là hắn không chịu bỏ cuộc, cứ nhất quyết bám lấy Peshawar. Vậy thì ta chỉ việc tập trung chăm sóc hắn là được.”
Nói rồi Narsus liền ngậm miệng.
--------------------------
Ngày 30 tháng 7, một cuộc họp diễn ra tại cung điện với sự góp mặt của 11 vị tướng. Tuy nhiên, người đầu tiên Arslan gặp trong buổi sáng hôm ấy lại là Ferdas, viên quan quản lý lăng mộ. Từ tháng 12 năm ngoái, ông vẫn luôn tìm kiếm tên tội phạm đã đánh cắp thi thể vua Andragoras đệ tam mà không có kết quả, nên tìm mọi cách xin từ chức.
“Quả là đáng tiếc khi chưa xác định được danh tính tên trộm mộ. Nhưng ngoài nhiệm vụ quản lý lăng mộ ra, ngài vẫn còn nhiều công việc khác. Ta không phê duyệt yêu cầu từ chức của ngài được, ngài hãy tiếp tục chức vụ đó.”
Mệnh lệnh của Arslan rõ ràng để an ủi Ferdas. Ferdas dập đầu sát đất.
Arslan đúng là một vị vua khoan dung, nhưng chàng làm vậy cũng có lý do khác nữa. Pars đã mất đi quá nhiều nhân tài sau cuộc xâm lược của Lusitania và không thể lấp đầy chỗ trống này trong vòng 5 năm. Nếu quan viên không mắc sai lầm quá nghiêm trọng mà cứ cách chức thì lấy đâu ra người thay thế họ đây.
Ferdas cảm động trước sự nhân từ của nhà vua. Ông ta tạ ơn rồi xin lui. Tướng Kishward tình cờ thấy ông ta rời cung điện, bèn nói với Dariun.
“Ta nghĩ giá mà ngài Sam và ngài Shapur còn sống thì chẳng phải sợ Ilterish làm gì.
“Nếu họ còn sống thì đương nhiên là rất tuyệt, nhưng chẳng phải có những đồng đội mới như Gieve và Merlane cũng rất may mắn sao?”
“Ngài nói phải.”
Kishward gật đầu, vuốt bộ râu luôn được cắt tỉa gọn gang của mình, cười.
“Kể từ sau cuộc xâm lược của quân Lusitania, một lớp nhân tài mới đã xuất hiện. Pars thay da đổi thịt rồi. Ta mới 34 tuổi mà đã thấy mình già.”
“Sau khi trưởng thành, người ta hay nói vậy.”
“Phải, nhưng đó là sự thật.”
Một lúc sau, các vị tướng khác cũng lần lượt được mời vào chỗ ngồi.
“Quả nhiên là phong cách của bệ hạ.”
Trước sự chào đón của Jaswant và Alfarid, Arslan không ngồi ghế trên. 13 chiếc ghế được sắp thành vòng tròn có đường kính chừng 4 gaz, và mọi người tham dự đều có đãi ngộ như nhau. Tể tướng Lucian ngồi bên trái nhà vua, tướng quân Kishward ngồi bên phải, nói một cách nào đó thì cũng có thể xem là ghế trên. Tuy nhiên, trước mặt nhà vua là Narsus, và bên cạnh anh ta là Dariun, hai vị trí này không thể coi là ghế dưới được.
Mọi người đều đã vào chỗ. Bắt đầu từ Arslan, lần lượt về bên trái là Lucian, Jaswant, Jimsa, Jaravant, Dairun, Narsus, Alfarid, Farangis, Gieve, Isfan, Elam và Kishward. Cửa sổ để mở cho gió lùa vào. Tuy nhiên, để ngăn kẻ thù đột kích, lính canh được bố trí bên ngoài, thậm chí cả trên sân và mái nhà.
Cuộc họp bắt đầu vào buổi sáng và kéo dài đến tận buổi tối. Những người tham dự đều được chia sẻ một lượng thông tin lớn.
Cái chế của Zandeh ở Mirs. Cái chết bất ngờ của Mundhir, lãnh chúa vùng Oxus, cũng là cha của Jaravant. Trận chiến trong mê cung dưới lòng đất ở núi Demavant. Những cuộc tấn công và phòng thủ ở pháo đài Peshawar. Những chuyện lạ xảy ra ở “khu vườn cao nguyên” thuộc lãnh thổ công quốc Badakhshan cũ…
Mỗi khi có người báo cáo, những thành viên tham dự đặt câu hỏi, rồi mọi người bắt đầu thảo luận sôi nổi. Nếu có quá nhiều thông tin lẫn lộn, Narsus sẽ bình tĩnh tóm tắt lại và sấp xếp các ý chính.
Vì là con nên Jaravant đã được biết về cái chết của cha mình, Mundhir. Anh nghe điều đó từ Farangis và Alfarid trước cả nhà vua. Vì vậy, trong cuộc họp ngày 30, dù chỉ là nghe lại thôi, không còn là thông tin mới nữa nhưng đôi vai to lớn của anh ta rũ xuống, đầu cúi gằm. Isfan và Jaswant cảm thấy rất tiếc nuối, không biết phải nói gì để an ủi anh ta.
Cuối cùng, Jaravant lên tiếng.
“Thật là một câu chuyện khó tin. Ý thần là, chuyện chiếc vòng bạc. Dù lệnh bà nói thật đi chăng nữa, cô gái tên Leila kia đâu nhất định là con của người?”
Vì chuyện này liên quan đến thân phận của Arslan nên rất khó đề cập. Tuy vậy, Jaravant sẵn sàng đưa ra ý kiến của mình mà không cảm thấy e ngại gì nên các tướng lĩnh khác cũng lần lượt nêu quan điểm. Cho đến giờ, vẫn chưa ai có luận điểm nào thuyết phục.
“Thú vị thật.”
Người nói là Narsus. Dariun liền hỏi.
“Cái gì thú vị?”
“À, nếu cô Leila đó thực sự là con của lệnh bà nhưng uống máu Xà vương và trở thành bề tôi của hắn, thế chẳng phải cũng là hậu duệ của Kai Khosrow, vị vua anh hùng đã đánh bại Xà vương sao? Con cháu của vua mà lại về phe địch à?”
Dariun liếc nhìn Arslan, cau mày.
“Chỉ là nói đùa thôi mà.”
“Thôi đi.”
Sau đó, Narsus qua về dáng vẻ lạnh lùng thẳng thắn, nhìn những người xung quanh.
“Nhưng chỉ dừng ở đó thôi. Nếu mọi chuyện đi xa hơn, Narsus ta sẽ không tha thứ. Dù cô ta có là con của lệnh bà nhưng một khi trở thành tay chân của Xà vương thì chuyện gì sẽ xảy ra. Đúng là mỉa mai.” Hoàng gia Pars cuối cùng chỉ là thứ đồ trang trí. Nó không liên quan đến vị vua hiện tại, cũng như vương quốc hiện tại.
Anh không hề tuyên bố hùng hồn, nhưng mọi người đều im phăng phắc. Người đầu tiên phá tan bầu không khí căng thẳng là Alfarid khi cô ngập ngừng nói.
“Nhưng có lẽ Leila cũng không tự nguyện…”
“Chắc chắn Leila đã gặp phải chuyện gì đó. Ilterish cũng vậy. Tuy nhiên, chúng ta không cần quan tâm đến những chuyện này. Chẳng bao lâu nữa, đội quân ma quỷ sẽ kéo đến kinh đô hoàng gia, phát động một cuộc tấn công quy mô lớn. Thời điểm đó đến, nếu ai thấy Leila hoặc Ilterish trước đội hình quân địch thì phải giết ngay, không thương xót.”
“….”
“Nếu có ai do dự khi đối đầu đội quân quỷ chỉ vì tình bạn hay mối quan hệ trong quá khứ thì kẻ đó đang đặt tình cảm cá nhân của mình lên trên đất nước này. Dù nhà vua có rộng lòng tha thứ, Narsus ta cũng không để kẻ đó sống sót. Các vị hãy nhớ lời này.”
Ai nấy đều đồng tình rằng kiếm thuật của Narsus đạt đến trình độ thượng thừa. Tuy nhiên, điều khắc biệt nằm ở trí tuệ sắc sảo và ý chí kiên cường của anh ta. Điều đó khiến các chiến binh dũng cảm nhất cũng phải e sợ. Ba vị tướng Kishward, Dariun và Farangis đều lặng lẽ cúi đầu, đặt nắm tay lên bài. Các tướng lĩnh khác cũng lần lượt làm theo, âm thầm khẳng định họ hứa sẽ tuân theo chỉ thị của quân sư.
Chỉ có Alfarid nhìn Narsus như muốn nói cô không biết phải làm gì, nhưng chỉ thoáng qua thôi, sau đó cô cùng đặt nắm tay xuống, cúi đầu sâu hơn bất cứ ai.
Người tên Narsus này có chức danh chính thức là họa sĩ cung đình, nhưng có thể coi là vị tướng thông thái nhất mọi quốc gia trên khắp Đại lục vương lộ. Anh sống đúng như kỳ vọng, đem về hết chiến thắng này đến chiến thắng khác cho quân Pars. Trí tuệ của anh như ngọn đèn thắp sáng đêm tối, chỉ đường cho những con người đang hoang mang, và được những chiến binh trực tiếp lăn xả trên chiến trường thừa nhận.
“Narsus.”
Giọng nói của Arslan vang lên, phá tan sự im lặng. Narsus bấy giờ mới như sực tỉnh, cúi đầu thật thấp trước vị vua trẻ.
“Thần không nhận ra đã nói những lời mạo phạm trước đức vua. Xin người giáng tội.”
“Không sao đâu, Narsus. Ngài chỉ nói thay những lời ta nên nói mà thôi.”
Arslan ngồi thẳng tại đó.
“Ta, vua của Pars, sẽ chịu trách nhiệm cho tất cả. Những người bạn thân mến của ta, hãy tuân theo chỉ dẫn của Narsus mà không cần do dự. Dù điều này khiến mẫu hậu ta phiền lòng, nhưng ta sẽ tạ lỗi với bà. Các bạn thân mến, đừng lo lắng gì cả.”
Một đám mây lớn lơ lửng giữa tầng không, che khuất ánh mặt trời chiếu qua ô cửa sổ. Trong chiếc ghế hơi khuất, giọng nói của nhà vua lặng lẽ vang lên.
“Có một người con như ta quả là điều đáng buồn, nhưng mang tội với đất nước còn đau đớn hơn. Ta phải coi máu của dân hơn nước mắt của mẹ mình. Đây là nghĩa vụ của vua một nước. Nếu ta quên điều này, mong các vị nhắc nhở.”
11 vị tướng có mặt lúc này đều mang tâm trạng khác nhau. Có những người từng phục vụ trong triều đình cũ, có những người chưa từng bước chân vào chốn quan trường, có những người đã gặp thái hậu Tahamine, cũng có người chưa từng nghe về bà ấy, có người từng coi Pars là kẻ địch, có người lại nhất mực trung thành từ lúc sinh ra….
Tất cả được kết nối với nhau bất kể địa vị, tính cách. Đó là vua Arslan. Nhờ sự hiện diện của chàng, mọi người đoàn kết lại. Họ im lặng thấu hiểu rằng, không ai thay thế được vị vua này.
------------------------
Sau khi giải tán, mỗi người đều đã nắm được lượng thông tin lớn và chắc sẽ mất rất nhiều thời gian để nghiền ngẫm.
Sau khi chào tạm biệt, Arslan tiễn từng người ra cửa. Ba người cuối cùng rời đi là Kishward, Dariun và Narsus. Họ lặng lẽ nói chuyện với nhau trong khi nhìn bóng lưng nhà vua đang hỏi han Alfarid và Gieve.
Narsus nói.
“Dù Ilterish đã về phe Xà vương nhưng hắn chỉ là một chiến binh chứ không phải một chiến lược gia.”
“Vì sao ngươi nghĩ thế?”
“Vì hắn không bất thái hậu làm con tin.”
Nghe Narsus nói, Kishward và Dariun sững người. Nhìn Arslan, Kishward rên rỉ.
“Đúng vậy. Nếu thái hậu bị bắt làm con tin, Arslan bệ hạ sẽ rất kích động.”
“Có cần gửi lính đến bảo vệ dinh thự của thái hậu không?”
Narsus lắc đầu với Dariun.
“Không, làm thế sẽ để lộ điểm yếu cho kẻ thù. Cứ lờ đi.”
“Nhưng lỡ đâu….thái hậu bị Ilterish sát hại….”
“Vậy thì chúng ta không cần lo thái hậu bị bắt làm con tin nữa. Còn với Arslan bệ hạ, Xà vương sẽ trở thành kẻ thù giết mẹ. Người sẽ đích thân chiến đấu với hắn đến cùng, không bao giờ lùi bước.”
Dairun nhìn Narsus, người đang toe toét cười với cặp mắt nghi ngờ.
“Ngươi nói thế là sao? Narsus, bạn của ta, dù kết quả như vậy cũng không vấn đề gì ư? Hay nói đúng hơn là ngươi mong mọi chuyện sẽ diễn ra như thế?”
“Sao vậy được? Ta đâu xấu xa đến vậy.”
Rồi anh ta lập tức đổi đề tài, không cho người bạn bắt bẻ thêm.
“Thôi đừng nói về giả thuyết này nữa. Có vẻ như mấy cây cọ vẽ chất lượng cao mất nửa năm để gửi về từ Serica sẽ được giao đến ngày hôm này.”
Các vị tướng lên đường về nhà. Bóng của họ đã dài hơn.
Tướng Kishward vẫn đắm chìm trong suy nghĩ khi cưỡi ngựa trên phố, quay về dinh thự của mình. Người vợ Nasrin mỉm cười chào đón anh. Bên cạnh cô là đứa bé Jimsa mang về từ biên giới. Cô bé cúi đầu thật sâu, chào Kishward.
Cô bé rất ngoan ngoãn, dù không nói được nhưng luôn vui vẻ. Vợ của Kishward, Nasrin không sai bảo cô việc gì nhưng cô vẫn chủ động đi quanh nhà, giúp đỡ nhữn gngười hầu. Từ dọn dẹp, giặt giũ, chăm sóc ngựa và đủ thứ linh tinh khác. Không biết có phải vì rất thích cô bé này không, Aiyar, được những người lớn gọi là “tướng quân của 50 năm sau” luôn đi theo cô.
Nasrin rất muốn cô bé tháo vát và chăm chỉ này làm con dâu mình. Thấy Aiyar lẽo đẽo sau lưng cô, vị tướng quân vuốt chòm râu gọn gang, mỉm cười xoa đầu cả hai.
Không chỉ cô gái này mới trở thành cư dân kinh thành những ngày gần đây. Còn có Aisha đang đi cùng Gieve và Isfan nữa.
“Nếu cô đã tập làm tư tế một thời gian thì có thể đến nhà tôi, phụ giúp tôi vài việc.”
Nghe Farangis nói vậy, Alfarid cũng lên tiếng.
“Hoặc là đến nhà tôi. Chúng ta cùng là những người tu tập thất bại, chắc sẽ có điểm chung.”
Alfarid cảm thấy rất gần gũi với cô gái này, nhưng Farangis không nói gì về điều đó.
Sau cuộc họp, Alfarid tâm sự với Farangis.
“Dù sao đi nữa, chuyện gì đã xảy ra với Leila….”
Những gì nghe được từ Gieve và Isfan khiến Alfarid rất buồn lòng.
“Đừng lo nghĩ nữa. Không phải lỗi của em.”
“Nhưng Leila vốn là một cô gái rất tốt bụng. Cô ấy không muốn trở nên như thế. Thật đáng thương.”
“Đương nhiên chị hiểu, nhưng chúng ta không thể làm gì. Nếu cô ấy bị trúng bùa mê thuốc lú gì đó, chỉ cần khiến cô ấy thức tỉnh là được, phải không?”
Alfarid luôn muốn nói chuyện trực tiếp với Narsus nhưng không có cơ hội.
Về phần Aisha, Aflarid cũng biết chuyện nên rất hứng thú, bèn hỏi Isfan ai đã đưa cô về.
“Cô ấy là người thế nào?”
“Là một cô nàng đi đâu cũng vấp ngã.”
“Đó cũng có thể xem là một loại tài năng.”
“Chỉ mỗi anh nói thế thôi, nhưng vậy cũng đúng.”
Khi Isfan lần đầu nói chuyện với Aisha, cô va phải một người đi đường và ngã. Sau đó, cô cũng ngã lăn ra khi bị thái hậu Tahamine nổi giận tát vào mặt. Luôn là những cú ngã bi thảm với tiếng kêukhốn khổ, và vì nó xảy ra quá thường xuyên nên mới để lại ấn tượng cho mọi người. Theo Isfan, cô gái này cần xem lại phương thức chuyển động cơ thể để giải quyết tình trạng này ngay lập tức.
“Cô gái tên Aisha này từng hầu hạ trong nhà quý tộc nên để cô ấy làm việc trong cung điện đi. Vừa hay gần đây có một cung nữ xin nghỉ vì bệnh cũ tái phát, cần người thay thế.”
Tể tướng Lucian nói thế, và Aisha cưỡi con la đến trước cung điện. Cô được sắp xếp cho một căn phòng trống, liền hái hoa tươi về trang trí, bắt đầu cuộc sống mới.
Có thể nói, Lucian rất xứng với chức tể tướng của mình bởi định hình được phong thái và uy tín từ rất sớm. Những khi vua Arslan vắng mặt, ông luôn ở kinh đô Ecbatana để loại trừ mọi mối lo.
Ông cũng thể hiện những năng lực đối nội vững chắc, có đóng góp lớn trong việc ổn định dân chúng sau giải phóng. Nhưng không phải lúc nào ông cũng có thể đưa ra những ý kiến thông minh trong quân sự và ngoại giao. Ông giao những việc đó cho phó tể tướng Narsus, còn bản thân làm hậu phương cho nhà vua. Arslan rất tin tưởng vị tể tướng này từ tận đáy lòng. Nếu có điều gì khiến chàng bất mẫn đôi chút thì hẳn là liên quan đến việc lập hậu.
Những thế lực quý tộc cũ không hài lòng với nhiều cải cách của Arslan. Cũng có những người tôn thờ huyết thống lan truyền tin tức Arslan không phải con của tiên vương Andragoras theo hướng tiêu cực. Cũng có nhiều kẻ cổ hủ ghét Narsus và Gieve, gọi họ là lũ “ngông cuồng, không biết trên dưới”. Tuy nhiên, vì có Lucian một lòng ủng họ nên những tiếng phản đối của bọn họ cũng chẳng lớn hơn được.
Một lần nọ, Arslan vô tình hỏi.
“Tể tướng không thích một kẻ luôn làm theo ý mình như Gieve đúng không?”
Lucian nghiêm túc đáp.
“Không không không, nhìn thấy ngài Gieve, thần lại nhớ đến chính mình hồi trẻ, cảm giác rất hoài niệm.”
Nghe câu này, không chỉ Arslan mà cả Elam cũng giât mình. Lucian nói rồi đi luôn, để lại hai chàng trai thì thầm với nhau.
“Ngài Lucian nói nghiêm túc đấy chứ?”
“Có thể nào là đùa không?”
“Kể cả có đùa, ta chắc rằng ngài ấy sẽ không đùa kiểu đó. Nghĩ mà xem, ngài ấy đủ tuổi làm cha ta. Quả thực có một số chuyện trong quá khứ mà chúng ta không thể nào biêt được.”
Lucian từng là lãnh chúa vùng Ray, nhưng trước khi thừa kế vùng đất, ông từng suýt rơi vào tình trạng khuynh gia bại sản. Vì vậy, ông vay tiền của những quý tộc giàu có khác, chuyến lên vùng hoang dã bằng đường thủy, cho phép những người lưu vong đến định cư và canh tác. Bản thông ông cũng tham gia lao động với quần chúng, nghe tiếng nói của họ và nỗ lực cải thiện.
Phải mất 20 năm, sản lượng trồng trọt và chăn nuôi trên lãnh địa của ông mới tăng lên gấp 3, rồi dân số tăng gấp đôi, Trường học, trạm xá được xây dựng, cây xanh phủ bóng hai bên đường. Số tiền vay được hoàn trả đầy đủ cả gốc lẫn lãi. Trong thời gian đó, có nhiều cuộc chạy đua vũ trang nhằm giành quyền thừa kế diễn ra ở khắp nơi. Mỗi khi hai bên chuẩn bị xung đột, ông đã bình tĩnh đứng ra hòa giải, nhận được sự tôn trọng của giới quý tộc.
Nhiều chiến tích như vậy được truyền đến Ecbatana, vì thế ông được vua Andragoras mời về làm thư ký triều đình. Ông làm ở bộ dân chính được 2 năm, được dân chúng và cấp dưới vô cùng yêu mến, nhưng sau đó, dường như ông vướng vào một cuộc tranh chấp bí mật trong cung điện nên xin quay về lãnh địa của mình với lý do chăm sóc người mẹ già yếu. Từ đó trở đi, ông không tham gia sự vụ nào, sống cuộc sống bình yên của một quý tộc, mãi đến khi đầu quân cho Arslan.
Vì ông có dáng vẻ điềm tĩnh, dản dị, nói năng điềm đam, “hai mươi mà trông như ba mươi”, nên ai cũng nghĩ rằng ông sẽ không hợp với kẻ sống phù phiếm như Gieve. Điều này khiến người ta liên tưởng đến câu tục ngữ của Pars, “Cây bám rễ ghen tị với co chim không rễ.”
Không ai phản đối việc bổ nhiệm Lucian làm tể tướng. Tuy ông đã tại chức gần 4 năm nhưng trong vòng 5, 6 năm tới, có lẽ sẽ không gặp phải đối thủ nào. Trên thực tế, Lucian rất danh tiếng, nhưng ông lại nhớ quê và sớm muốn từ chức nghỉ hưu. Ông muốn Narsus làm người kế nhiệm mình nhưng anh ta luôn tìm cách thoái thác.
Đó cũng là tính xấu của Narsus. Anh ta là người không có chút đam mê nào với địa vị và danh tiếng. Kể cả phong là tể tướng, anh cũng sẵn sàng vứt bỏ bất cứ lúc nào. Chỉ có mỗi một thứ mà anh chàng thông mình này không chịu từ bỏ, đó là danh hiệu “Họa sĩ cung đình.”
“Nếu không còn được làm họa sĩ cung đình nữa thì ta chết mất.”
Vị tướng thông thái nhất Đại lục vương lộ nói thế mà chẳng thèm suy nghĩ. Hiện giờ, anh ta vẫn điên cuồng lùng mua những bức tranh và bút vẽ với giá cao.
Trên đời còn có kẻ phung phí như vậy ư? Dariun nói, kèm theo vẻ mặt không thể nào cảm thông nổi.
------------------------------
Gia tộc lãnh chúa Oxus là một trong số ít các gia tộc có tiếng ở Pars. Nhưng tộc trưởng Mundhir mất tích, em trai Kaimain của ông ta bị Alfarid giết, con trai Kaimain là Namod cũng bặt vô âm tín. Người duy nhất còn sống trong gia tộc này là Jaravant, con trai Mundhir.
Khi biết chuyện, vua Arslan đã bảo Jaravant về quê mấy ngày để giải quyết việc riêng nhưng anh kiên quyết từ chối. Những công trình công cộng quanh kinh đô hoàng gia đang được xây dựng, cho nên người chỉ huy thi công như anh không thể vắng mặt.
“Nếu không muốn về thì không cần miễn cưỡng cũng được.”
Arslan nhận thấy điều này nên không thúc ép Jaravant nữa. Tuy nhiên, dù còn trẻ nhưng chàng suy nghĩ rất thấu đáo, liền ra lệnh cho tể tướng Lucian chuẩn bị giao quyền thừa kế lãnh địa vùng Oxus cho Jaravant. Ngay trong ngày, văn bản đã được trình lên cho nhà vua, và đến tay lãnh chúa mới.
Jaravant cầm lấy giấy chứng nhận thừa kế và bật khóc. Anh biết ơn nhà vua, đồng thời nhớ đến những năm tháng khó khăn nhất của cha và gia đình mình, cũng như thời thơ ấu ở quê hương. Nghĩ vậy, anh không kìm được cảm xúc. Đến tận khi về tới nhà, anh vẫn khóc thút thít. Đám người hầu trông thấy và rất xót xa nhưng không biết nói gì.
Jaravant chưa có vợ nhưng anh cũng có một vị nữ quản gia tên Juliana, người phụ trách mọi việc trong nhà. Bà ra lệnh cho người hầu Halim.
“Mau chuẩn bị nước tắm cho ông chủ.”
“Vâng, xong ngay đây.”
Halim là chàng trai làm việc ở nhà tắm công cộng trên phố Ecbatana. Vì tình cờ nghe được cuộc trò chuyện bí mật giữa lũ quỷ mặt chim mà tính mạng của anh ta gặp nguy hiểm. Cuối cùng, anh được Arslan cho tị nạn ở nhà Jaravant. Ban đầu, anh định dùng tiền tiết kiệm để mở một nhà tắm công cộng riêng, nhưng giờ lại tận hưởng cuộc sống thư thái ở nơi an toàn này. Không ai giỏi hơn anh trong việc phục vụ ở nhà tấm. Và vì anh là người giao tiếp giỏi, biết đủ chuyện trên đời nên rất được Jaravant yêu thích.
“Vì cơ thể ông chủ cường tráng hơn, cần bỏ thêm dược liệu vào nước rồi đun sôi. Lưng của ngài cũng rộng nên cọ lưng cũng nhọc lắm đấy.”
Vừa nói về việc chăm sóc sức khỏe, Halim vừa đấm lưng cho Jaravant, vui vẻ nhận những đồng bạc thưởng.
Dưới trướng Jaravant có một chỉ huy cấp thấp tên Bashani. Xuất thân là quản đốc mỏ bạc ở Badakhshan, anh ta tham gia trận chiến với quân Lusitania theo lời hiệu triệu của thái tử Arslan. Sau khi tới kinh đô hoàng gia, anh ta tìm được người yêu ở đây nên không muốn quay về quê hương nữa, chính thức thành thuộc hạ của Jaravant, sử dụng những kỹ năng của mình cho việc sửa chữa tường thành, khôi phục kênh dẫn nước, đồng thời được giao chỉ huy 500 kỵ binh.
Giống như Bashani, có hơn 500 binh sĩ từ Badakhshan không muốn quay về quê hương mà ở lại kinh đô bởi họ phải lòng các cô gái Ecbatana. Mà con gái Ecbatana lớn lên giữa kinh đô tráng lệ, dù vùng biên giới Badakhshan có đất đai trù phí đến đâu, họ cũng không muốn chuyển về đó. Vậy nên những chàng trai đâu còn cách nào khác là theo người yêu.
Nhưng Ecbatana không có mỏ nên không có cả nghề khai thác mỏ. Trong số những người đồng hương, chỉ có một nửa ở lại làm việc cho quân đội dưới sự chỉ huy của Nashani, còn một nửa đảm nhận các nhiệm vụ khác nhau trong công tác xây dựng công trình dân sự, ổn định cuộc sống mới ở kinh đô.
Lần cuối Jaravant gặp Bashani là vào tháng 7 khi anh ta đến và nói rằng có sự lạ xảy ra, nhưng sau đó, mọi chuyện bị gác lại. Người ta đồn rằng một số công nhân mỏ đá ở khu vực có tên Kallya, ngoại ô kinh thành, đã mất tích.
Ngày 1 tháng 8, Jaravant cùng Bashani đến phố Kaliya cùng hàng chục binh sĩ.
“Ồ, đó không phải ngài Jaravant đấy sao?”
Người dân rất nhiệt tình chào đón. Trước kia, nơi này chỉ có những bức tường đổ nát trải dài khắp con phố, cuộc sống của người dân không thể xem là sung túc. Nhưng từ khi Arslan lên ngôi, đường dẫn nước được khôi phục, các ao hồ được bơm đầy, cát và bùn được gia cố bằng nhựa đường, đồng thời các trạm xá miễn phí cho người nghèo được dựng lên. Người dân có thể tham gia những công việc công cộng và được trả lương, những ai không thể làm việc thì được phát gạo và cháo. Người đích thân chỉ huy các hoạt động ấy tại hiện trường là Jaravant.
“Nhờ có ngài mà cuộc sống của chúng tôi được như bây giờ.”
“Ta chỉ làm theo mệnh lệnh của nhà vua thôi. Muốn bày tỏ lòng biết ơn thì phải bày tỏ với Arslan bệ hạ.”
“Cầu mong đức vua luôn mạnh khỏe. Ngài ấy còn trẻ, tôi hy vọng ngài ấy có thể tiếp tục trị vì đất nước thêm 50 năm nữa.”
“Các vị nói gì vậy? Phải là trăm năm!”
Jaravant rất nổi tiếng trong dân chúng. Tuy anh xuất thân từ gia tộc danh giá nhưng tính tình thẳng thắn, dễ gần và rất hào sảng. Anh thường đến nơi làm việc từ sáng sớm, mang rượu và thịt cho các công nhân. Đôi khi anh tự mình vác những tảng đá lớn, hoặc đọ sức với những người thợ khỏe mạnh nhất một cách tự tin. Khi cần giẫm đất để lấp những vùng bin ngập, ông tặng phụ nữ và trẻ em hàng trăm đồng bạc, đồng thời mời các nghệ sĩ đến để họ cùng nhảy múa hát ca, đạp đến khi đất cứng như gạch ngói. Về mặt xây dựng, anh ta có cái đầu vô cùng nhạy bén.
Jaravant được đưa đến mỏ đá, nơi những người công nhân đang tụ tập.
“Ồ, họ đều là phụ nữ sao?”
“Vâng.”
Jaravant ngỡ ngàng khi thấy những người làm việc ở đây toàn là phụ nữ. Họ muốn tự mình sinh tồn sau khi cha và chồng bị giết trong cuộc xâm lược của người Lusitania.
“Đàn ông đã chết nên phụ nữ phải sống. Những người khỏe mạnh nhất đều đến đây làm việc.’
“Đương nhiên rồi. Nếu có điều gì mang lại sức mạnh cho họ thì đó là sự nhân từ của đức vua.”
Người ta mang cơm trưa cho Jaravant.
“Nơi này là công trường, không có gì ngon. Nếu ngài không chê thì xin mời dùng.”
Trước mặt anh là rất nhiều bánh mì nướng hành, sữa chua, nho khô, chà là và hạnh nhân.
Có năm đại diện của những nữ công nhân đến kể lại tình hình cho Jaravant nghe. Mỗi khi có người biến mất, họ thường bắt gặp một bóng đen kỳ lạ lang thang xung quanh. Họ nói cái bóng xuất hiện từ vách đá cách đây không lâu.”
“Chúng tôi không sợ đàn ông. Nếu gặp phải mấy tay đàn ông không nên thân, hành xử lỗ mãng, mọi người sẽ cùng nhau đuổi hắn đi. Nhưng kẻ này hình như không phải người.”
“Ồ…”
Jaravant nhai bánh mì nướng hành, không ngờ lại ngon như vậy. Vừa cắn một miếng, hương thơm đã lan tỏa trong miệng, khiến anh lập tức muốn uống một cốc bia. Không không, anh lẩm bẩm nhắc nhở mình, đây là nơi làm việc, phải làm việc.
“Vậy đưa ta đến đó xem. Ta muốn tận mắt nhìn.
Những người phụ nữ khỏe mạnh tay cầm xẻng, vây quanh Jaravant. Khi Jaravant bước đi, anh cảm giác như mình là một tù nhân bị áp giả. Bãi đá rất rộng, nắng chiếu trắng lóa.
“Đây, thưa tướng quân.”
Những người phụ nữ chỉ vào một khoảng trống giữa những tảng đá, nom như bia mộ.
Khe nứt chỉ đủ rộng cho một người lính mặc áo giáp đi qua. Jaravat dù cảm thấy có chút uể oải nhưng vẫn đành phủi bụi trên vai, thò người vào xem. Một cơn gió thổi ra từ bên trong sâu hút, vừa nóng nực vừa khó chịu. Khi nó lướt qua mũi Jaravant, anh ngửi thấy mùi hôi.
“Ta hiểu rồi, có vẻ như có ai đó sống ở đây. Chúng ta cần tìm hiểu về gã này.”
Jaravant duỗi cơ thể to lớn của mình ra. Có người hoảng sợ khi chứng kiến tất cả mọi chuyện, chính là Bashani.
“Thưa ngài Jaravant, xin đừng hành động nóng vội. Ngài không chuẩn bị gì sao?”
“Ta mà lại sợ nguy hiểm à?”
“Trong trường hợp này, cẩn thận vẫn hơn. Nếu ngài Jaravant xảy ra chuyện gì, nhà vua sẽ rất buồn lòng. Những kế hoạch xây dựng về sau cũng gặp trở ngại.”
Nghe nhắc đến nhà vua, Jaravant đành từ bỏ ý định. Anh miễn cưỡng chấp nhận lời khuyên của cấp dưới, bèn re lệnh dựng rào gỗ quanh vết nứt rồi hẹn sẽ quay trở lại trong ngày.
-------------------------------
Ngày 2 tháng 8.
Jaravant đến gặp vua Arslan để báo cáo về khe nứt bí ẩn được phát hiện ở mỏ đá vùng Kaliya, đồng thời xin được dân binh lính đến đó tìm hiểu.
Arslan liền đồng ý. Kishward và Dariun khi ấy cũng có mặt. Thực sự hai người họ đều đã phát chán những ngày loanh quanh trong cung điện.
“Cứ để ta đi.”
Thấy Dariun định xung phong, Kishward liền lên tiếng.
“Nếu kẻ địch là cả một đội quân xếp kín đường chân trời, ta sẽ đề nghị ngài làm bạn đồng hành. Nhưng nếu chỉ là đối phó với lũ quái vật lén lút trong lòng đất thì đâu cần “Chiến binh của các chiến binh” phải ra mặt? Thế không phải dùng voi giết kiến hay sao?”
“Thế thì ai sẽ đi đây?”
“Ta sẽ tự mình vào đó.”
Nhìn vẻ mặt quả quyết của Kishward, Dariun thốt lên.
“Eran đích thân ra tay thì chẳng phải còn lãng phí nhân tài hơn ư?”
Dariun còn đang ôm mối hận khi không thể tham gia trận chiến công và thủ thành Peshawar. Anh muốn được chiến đấu với kẻ thù, nhưng đó cũng chính là khao khát của Kishward.
“Lần này ta lấy tư cách eran để ra lệnh, nggài không được phản đối!”
“Ngài thật độc đoán!”
“Ngài nói gì cứ nói, nhưng đây là thẩm quyền của ta. Ngài Dariun, lẽ ra khi được tiến cử làm eran, ngài nên nhận lấy chứ đừng đẩy cho người khác. Nếu vậy thì bây giờ ngài đã ở vị trí được phép quyết định mọi việc rồi.”
“Hả, chuyện đó….”
“Ta ra lệnh cho ngài Dariun phải túc trực trên mặt đất, với sự phụ tá của ngài Jimsa. Cả hai không được lơ là, nhất định phải hành động theo chỉ thị của eran.”
Dariun uất ức đến không nói được câu nào, chỉ biết trơ mắt nhìn Kishward rời khỏi phòng nghị sự. Arslan đang ngồi đọc sách ở bên cạnh, bèn lên tiếng.
“Dariun, lần sau ta sẽ để anh ra trận. Lần này cứ giao cho Kishward đi.”
“Vâng, nếu bệ hạ có lệnh….”
Nhưng không ia ngờ rằng điều này lại dẫn đến một thảm kịch về sau.
Ngày 3 tháng 8, eran Kishward và tướng Jaravant dẫn 200 binh sĩ, tham gia chuyến thám hiểm lòng đất.
Dariun và Jimsa dân 300 quân túc trực trên mặt đất chờ lệnh. Dù bảo họ canh gác ở đây để đề phòng bất trắc nhưng Dariun vẫn không vui, còn Jimsa thì nghĩ mọi người không đề cao cảnh giác lắm thì phải. Đa số bunh lính ở đây đều là tân binh, họ chỉ thong thả cầm giáo đứng nói chuyện.
Lúc này, Elam chạy tới, cầm theo một chiếc giỏ lớn, đưa cho Dariun và Jimsa, đều là quà an ủi do Arslan gửi. Trong đó có rượu vang lạnh, thịt gà nướng, sườn cừu, bánh mì và quả lê tươi. Binh lính thì được phát thịt cừu và bánh mình.
Sau khi cảm ơn thịnh tình của nhà vua, Dariun ngồi lên tảng đá lớn và bắt đầu bày tỏ nỗi bất mãn với vị eran nào đó đã tranh việc của mình.
Trong lúc Dariun cùng những người khác tổ chức bữa tiệc nhỏ thì dưới lòng đất chừng 50 gaz, Kishward và Jaravant đang bắt đầu chuyến phiêu lưu không mấy kỳ thú. Con đường được chiếu sáng bởi ba trăm ngọn đuộc, dài hơn người ta tưởng tượng nhiều, càng đi sâu càng dốc xuống.
Một vài binh sĩ trông thấy cái bóng kỳ lạ và hét lên.
“Có phải lũ ma cà rồng không?”
“Trông như một con chó bốn mắt vậy.”
Bầu không khí bỗng trở nên u ám.
Arslan gửi quà an ủi cho Dariun cùng quân lính vì chàng nghĩ sẽ không có chuyện gì nghiêm trọng, mà ngay cả Dariun và Kishward cũng thế. :úc này, Kishward bình tĩnh ra lệnh cho binh lính thật cảnh giác. Anh nhận thấy quân số của mình đã giảm đi. Tình huống này chưa từng xảy ra với Kishward, một người đàn ông không có điểm yếu.
Một trận chiến khác nổ khi một con chó bốn mắt xuất hiện. Binh lính hàng trước và hàng sau xô đẩy lẫn nhau.
“Giết chết nó!”
“Thiêu sống nó đi!”
Những tiếng la hét chửi mắng càng làm tăng thêm sự bất an. Lính ở đây đều là những chiến binh dũng cảm đã mạnh mẽ sống sót sau trận chiến với Lusitania. Dù kẻ địch có bất ngờ tấn công, họ cũng không hề nao núng.
Nhưng đối thủ lần này của họ lại chẳng phải con người. Họ nhận thấy mình đang rời xa vương quốc của loài người và tiến dần đến lãnh thổ bóng tối của Xà vương Zahhak. Người dân Pars vẫn luôn ôm nỗi ám ảnh vô hình với cái tên này, chỉ một chút kích động sẽ khiến họ hoảng loạn.
Jaravant đang hành quân phía trước, ta phải cầm rìu, tay trái cầm đuốc, vững vàng tiến lên. Dù trong lòng có bất an và sợ hãi, anh vẫn phải chỉ huy quân lính nên không thể biểu hiện ra.
“Ồ, kia là….”
Hiện ra trước ánh lửa là một gian phòng rộng lớn sáng ngang với đại sảnh cung điện, mà có lẽ cũng chỉ thấy được một phần mà thôi. Phía trên cao, bóng tối vẫn bao trùm, không thể ước lượng được đâu mới là tận cùng. Trên tường chạm trắc nhiều loài động vật đáng sợ như rắn và bò cạp, còn có những bệ thờ tạc bằng đá đen.
“Chỗ quái quỷ gì vậy….”
“Trông như một ngôi đền.”
Kishward thì thầm đáp lại Jaravant.
“Nói thế thì báng bổ thần linh quá. Thứ được thờ cúng ở đây hẳn đầy hận thù và nỗi sợ.”
Có vài bếp lò lớn nhỏ khác nhau, chân nến, vạc, chai, đĩa….không thể nào đếm hết được. Vài con dao nhọn đặt trên bệ đá dính máu, vẫn sót lại những thứ trắng ởn trông như xương. Một bộ xương trắng khác bị treo lên tường bởi những sợi xích sắt.”
“Chỗ này đã qua bao nhiêu năm rồi nhỉ?”
“100 hoặc 200 năm gì đó….Không, có lẽ còn hơn thế, tạm thời chưa thể kết luận được.”
Kishward nhìn chằm chằm bệ thờ bằng đá đen.
“Tính từ khi Xà vương Zahhak bị Vua anh hùng Kai Khosrow đánh bại thì đã hơn 300 năm rồi.”
“Trong lời gian đó, chúng vẫn ẩn nấp dưới lòng đất Ecbatana sao….?”
Jaravant nuốt nước bọt. Bóng binh lính đong đưa dưới ánh đuốc, phản chiếu lên bức tường, trông cũng như bầy quái vật. Giữa làn sóng đỏ đen này, kho ai bình tĩnh được.
“Ngài Eran gọi đây là đền thờ thì chắc chắn phải có thầy tế. Nhưng ở đây không có ai cả.”
“Có thể chúng trốn rồi.”
“Nếu trốn thì hẳn chúng đang theo dõi hành động của chúng ta. Một khi có chút sơ hở, chúng sẽ tấn công, phải không?”
Đúng lúc này, những tiếng đập cánh cùng tiếng la chói tai át đi câu nói. Hàng chục hàng trăm bóng đen lao ra từ góc tối phía trên. Những con quái vật cũng xuất hiện ở mọi nơi dưới mặt đất.
“Ồ, đúng như ta mong đợi!”
Jaravant vung cánh tay lực lưỡng, chiếc rìu khổng lồ trên tay anh ta cũng gầm lên.
Một con chó bốn bắt rơi xuống với cái đầu đứt lìa. Một con ma cà rồng khác gãy cổ, va vào tường. Máu độc phun ra từng miệng nó khi nội tạng vỡ nát. Cùng lúc đó, một con quỷ vượn bị ngọn đuốc quất trúng. Nó ngã xuống với cái đầu bốc cháy.
Trong nháy mắt, 10 con quỷ đã lăn lộn dưới chân Jaravant.
“Có khi không đến lượt ta thể hiện rồi.”
Kishward cười gượng, vung đôi song kiếm màu trắng bạc. Đầu của hai con chó bốn mắt bay lên, máu bắn theo cả chiều dọc lẫn chiều ngang trước khi cơ thể nó rơi xuống.
Những binh lính được Kishward chỉ huy vô cùng điêu luyện. Họ đứng thành từng nhóm ba người, đấu lưng vào nhau, dùng kiếm và thương giết quái vật. Ngay khi trận chiến chính thức bắt đầu, sự ưu tú của những người này liền xua tan nỗi sợ.
Một con quỷ vượn có cánh đứt lìa cánh tay, thở hồng hộc, theo dõi đám người. Cặp mắt vàng của nó lóe lên ánh tím đầy hận thù. Tuy nhiên, dường như nó không định tham gia trận chiến sinh tử này mà chỉ ẩn mình sau những cái vạc, cố gắng che giấu sự tồn tại của bản thân.
Chẳng bao lâu sau, một người hô lên.
“Ngài eran, đã giết gần hết bọn chúng rồi.”
“Ồ, ngài Jaravant, phong thái chiến đấu của ngài thật tuyệt vời, khiến ta vô cùng ngưỡng mộ.”
“Không không, những kẻ này đâu là gì so với các chiến binh tinh nhuệ Turan hay hiệp sĩ Lusitania. Không có gì đáng khen ngợi ở đây cả.”
Jaranvant cười lớn. Dù có phần gượng gạo nhưng dù sao đây cũng là lần đầu tiên anh lấy lại khí thế kể từ khi hay tin cha mình qua đời.
Kishward đáp lại anh ta bằng một nụ cười, một ta cầm đôi song kiếm, tay kia vỗ nhẹ đôi vai to lớn của người đồng nghiệp.
“Ngài còn trẻ, rất triển vọng. Sau này ta sẽ trông cậy vào ngài.”
Rồi nụ cười chợt biến mất, thay bằng tiếng quát đầy uy lực.
“Kẻ nào!”
Một người lính ném ngọn giáo về phía phát ra âm thanh. Mũi giáo đâm vào cái vạc lớn, bật ngược trở lại, rồi một sinh vật xuất hiện. Đó là con quỷ vượn có cánh nhưng chỉ còn 1 cánh tay.
Con quỷ vượn gào lên một tiếng, biết mình không thể thoát thân. Tay phải nó chống xuống mặt đất, co rúm người lại, đầu cúi gằm. Rồi nó nằm rạp ra, tay phải giơ lên như đang cầu xin. Khuôn mặt đầy nước mắt nước mũi, lộ rõ vẻ sợ hãi.
Những người lính vốn định giết nó bỗng cảm thấy khó xử, đưa mắt nhìn nhau.
“Dù sao nó cũng bị thương nặng rồi, không đáng giết. Cứ thả nó đi.”
Nghe Jaravant nói vậy, những người lính thu gươm lại.
Con quỷ vượn kêu lên lần nữa. Sau khi biết mình được tha mạng, nó liền co người lại, quay lưng chạy vào bóng tối.
------------------------
Sấm rền trên cao.
Các tướng lĩnh đều cảm nhận được. Tuy nhiên, sao có thể như thế được? Họ đang ở dưới lòng đất, và trên đầu họ hẳn là những con đường của kinh đô hoàng gia cơ mà.
Có thứ gì đó rơi xuống dưới ánh đuốc, tựa như trang sức, lấp la lấp lánh. Chúng lách tách trên vai những người lính, làm ướt quần áo họ.
“Mưa à?”
“Đừng nói nhảm. Dưới lòng đất làm sao có mưa được. Kiểm tra lại xem….”
Lời này im bặt giữa chừng trong sự ngột ngạt, và tiếng nước càng xối xả thêm.
Chỉ khi đó, những người lính mới nhận ra tình hình nghiêm trọng thế nào.
Trần cát phía trên đang sụp đổ. Có lẽ trên đó là một hồ chứa nước lớn, và phần đáy đã nứt ra.
“Chạy mau!”
Nước trút xuống như thác đổ.
Âm thanh ầm ầm cùng những tiếng la át đi mệnh lệnh. Kishward và Jaravant cũng ướt sũng. Đuốc tắt ngấm, bóng tối bao trùm.
Nước đã dâng từ mắt cá chân lên tới đầu gối, rồi mau chóng đến thắt lưng. Lượng nước và tốc độ nước dâng đáng báo động. Những thứ nồi vạc chai lọ rơi xuống, tỏa ra mùi hương lạ nhưng rồi cũng mau chóng bị nước nhấn chìm.
“Mau tìm chỗ bám vào. Đừng để nước cuốn trôi!”
Dù mệnh lệnh được hét lên với âm thanh đủ để cả vạn quân nghe thấy, nhưng vẫn bị tiếng nước át đi. Lúc này, nước trút dữ dội đã tạo thành vòng xoáy, lan ra bốn phía. Những thanh kiếm cũng bị cuốn vào, cùng lao về một hướng.
Người sống, người chết hay lũ quái vật cũng bị nâng lên, dìm xuống, dập dềnh trong cơ lũ dữ, cuối cùng bị nhấn chìm trong lòng đất tối tăm.
Kishward vứt bỏ đôi song kiếm, mau chóng cởi mũ và áo giáp. Để thực hiện xong hết những động tác này, anh đã phải lặn ngụp trong nước năm sáu lần. Cuối cùng, cơ thể anh cũng đã đủ nhẹ để nổi lên trên mặt nước.
Ngay trước khi lá phổi cạn kiệt, anh liền hít một hơi thật tham lam, bất chấp cả nước bắn vào miệng.
“Eran Kishward, ngài ở đâu?”
Jaravant hét lớn nhưng giọng cũng lạc đi trong tiếng nước gầm, không ai nghe thấy.
Bất giác, đỉnh đầu sáng hơn. May sao bây giờ là ban ngày.
Trên mặt đất, cũng chính là kinh đô hoàng gia, một cảnh tượng lạ lùng xuất hiện. Đáy bể chứa nước có đường kính khoảng 2 amagi nứt ra, âm thanh ầm ầm như sấm, nước chảy hết xuống lòng đất, biến thành vùng bùn trũng. Có ai đó bò ra khỏi vũng bùn, loạng choạng đứng dậy.
“Gurgin? Gurgin, ngươi ở đâu?”
Âm thanh khàn khàn truyền xuốngd dáy nước. Một gã mặc áo choàng đen với thân mình đầy bùn, giơ hai tay lên che khuôn mặt như thể sợ hãi ánh nắng.
“Gurgin, này, ngươi chết đuối trong đó à? Vậy thì ngươi đúng là đồ ngốc.”
Gã pháp sư trong bộ áo choàng xám dường như không thương tiếc gì cho đồng đội của mình, chỉ nhìn quanh với đôi mất hẹp.
“Thấy không? Lũ người không có đức tin. Những kẻ chống lại Xà vương Zahhak đều sẽ có kết cục như vậy đấy.”
Hắn cất tiếng cười hoang dại. Bộ áo choàng đen ướt sũng, quấn quanh người một cách tối tăm nặng nề. nhưng với Gundi, nó vẫn nhẹ nhàng như lông vũ.
Chửi rủa nắng mặt trời chói gắt, gã pháp sư rời khỏi vũng bùn, leo lên mặt đất cứng. Nhưng mới đi được vài bước, hắn sững sờ dừng lại. Một người đang đứng chắn ngay trước mặt.
“Cười xong chưa?”
Người này toàn thân mặc chiến giáp đen tuyền, chỉ có mặt trong tấm áo choàng đỏ rực như máu. Anh ta từ từ rút thanh trường kiếm. Ánh mặt trời yếu ớt phản chiếu nơi lưỡi kiếm, khiến nó rực rỡ huy hoàng.
“Đây là tiếng cười cuối cùng của ngươi, cho nên ta sẽ để ngươi cười cho đủ. Vừa lòng chưa?”
Chiến binh trong bộ giáp đen ấy chính là Dariun. Ngay khi nghe tiếng động lớn trong khe đá, anh đã trèo lên một nơi cao hơn phá trông thấy hiện tượng lạ xảy ra ở bể chứa nước gần đó. Tức thì, anh cưỡi ngựa tới, hoàn toàn quên đi men rượu, sau đó tìm thấy tên pháp sư đang định trốn thoát.
“Tâm trạng ta không tốt. Ngươi phản kháng ta cũng giết, mà chạy trốn ta cũng giết.”
“….”
“Cho nên nếu không muốn chết thì mau chóng đầu hàng. Từ trước đến giờ, ta giết không biết bao nhiêu kẻ mạnh hơn ngươi, chon nên ta cũng không nương tay với lũ thuộc hạ của Xà vương đâu.”
Dairun bước về phía trước, phong thái vừa tao nhã lại vừa nguy hiểm, xứng với biệt danh “Hổ tướng” mà người Sindhura đặt cho anh.
Gã pháp sư quay lại, nhưng cũng sững sờ tại đó. Dưới ánh nắng chói gắt, gã thấy một chiến binh với chiếc ống thổi trong tay. Tấn nhiên gã không biết đây là kẻ đã đâm mù mắt phải của người đồng nghiệp Gazdaham, nhưng hắn hoàn toàn cảm nhận được sát ý bừng bừng của đối phương.
Phát ra một tiếng kêu kỳ quái, cơ thể tên pháp sư đột ngột bay lên. Cùng lúc, ánh kiếm lóe lên, rồi dưới chân Dariun phát ra âm thanh nhão nhoẹt khó nghe.
Cơ thể của gã pháp sư rơi xuống bùn.
Chỉ có một chút máu văng lên do Dariun tấn công bằng mũi kiếm. Với một đòn nhanh như chớp từ trái sang phải, Dairun đã cắt đứt gân chân đối phương. Gã pháp sư mặt đầy bùn, đau đớn, tủi nhục, muốn bò cũng không bò nổi, chỉ có thể vùng vẫy.
“Ngài không định giết hắn sao, ngài Dariun?”
Jimsa bước tới hỏi.
“Ta nghĩ nên để hắn sống, biết đâu hắn sẽ khai ra.”
“Ta không nghĩ tên này sẽ chịu nói gì đâu.”
“Ta cũng nghĩ vậy, nhưng hắn có nói hay không cũng không quan trọng.”
Dariun tra kiếm vào vỏ. Dưới gò má anh ta vẫn còn vệt đỏ chứng tỏ đã uống khá nhiều rượu. Jimsa cũng hơi sau. Sau khi cất ống thổi đi, anh phải vỗ vào gương mặt nóng bừng của mình mấy cái cho tỉnh.
“Nếu chúng ta không thả tên này đi, kiểu gì đồng bọn của hắn cũng nhốn nháo lên đi tìm.”
“Lũ thuộc hạ của Xà vương coi trọng đồng đội đến thế ư? Ta còn vừa nghe hắn chửi rủa bạn mình.”
“Nếu vậy thì…”
Jimsa khẽ cúi đầu, nhìn tên pháp sư lăn lộn trong đau đớn mà chẳng có chút cảm thông.
“Lúc ta chiến đấu với hoàng tử Ilterish, một tên pháp sư đã chen ngang. Ta dùng mũi tiêu bắn hỏng mắt phải của gã, nhưng tên này vẫn còn hai mắt đầy đủ.”
Jimsa nở nụ cười cay đắng bên khóe miệng.
“Chúng có thể tái sinh không nhỉ? Giờ ta có thể thử đâm mù một mắt của gã để xác nhận.”
“Đừng thô lỗ quá. Hắn còn có ích đấy.”
“Có ích gì?”
“Lũ tay chân của Xà vương Zahhak đã bị bắt về thẩm vấn. Chỉ cần cho cả thế giới biết tin này là được.”
“Ồ….”
“Nếu làm vậy, lũ đồng bọn sẽ tìm đến giết hắn bịt miệng. Chúng ta có thể giăng lưới bắt cả đám, thế nào?”
“Ta hiểu rồi. Ngài dùng hắn làm mồi nhử.”
Jimsa gật đầu ngưỡng mộ. Dariun liền nói tiếp.
“Hoặc kể cả chúng ta không làm gì, đồng bọn của hắn cũng sẽ trùng phạt kẻ phản bội thôi. Kết quả vẫn vậy.” Dariun nheo mắt. “Những vấn đề còn lại, cứ để người bạn thông minh của ta suy nghĩ đi.”
Hiệp sĩ áo đen vẫy tay, gọi quân lính của mình.
Tên pháp sư Gundi sẽ không được đối xử như một vị khách. Sau khi bôi thuốc và băng bó vết thương ở chân, quân lính trói gã bằng dây da, đồng thời bịt miệng để ngăn gã cắn lưỡi tự sát. Mắt hắn cũng bị che lại, tay buộc ra sau lưng, từng ngón tay đều bị quấn chặt. Khi gã bị đưa đi rồi, cuối cùng Dariun nghe thấy âm thanh của những người vừa bò ra được khỏi bùn.
“Ngài eran, ngài an toàn là mừng rồi.” Dariun muốn cười nhạo Kishward nhưng đành kiềm chế. Kishward đã mất đôi song kiếm, ngôi đền dưới lòng đất bị nhấn chìm. Bằng chứng về âm mưu và tội ác đều bị chôn vùi trong nước.
Dù đã tiêu diệt được khoảng 300 con quỷ vượn có cánh, chó bốn mắt và ma cà rồng, nhưng không thể xem là chiến tích đáng tư hạo không lực lượng phe ta đã không thể bảo toàn.
Có 18 người chết đuối, 16 người mất tích, tổng cộng 34 nạn nhân. Kishward vô cùng tự trách về sự cố ngoài ý muốn này.
Sau khi Jaranvant bò ra khỏi bùn, anh cùng Kishward vội vàng quay về tắm rửa, thay quần áo. Ba vị tướng quân vào cung báo cáo vụ việc xảy ra. Lúc này, Narsus cũng ở bên cạnh Arslan.
“…..Bể nước bị hư hỏng hoàn toàn, tình hình rất khó khăn.”
“Xin đừng lo, bể vẫn còn khả năng chứa nên chỉ cần chuyển thêm nước để bù vào.”
Nghe Kishward nói, Jaravant liền trấn an.
“Nhưng cần mau chóng xây dựng đường nước. Dùng gạch thì phải mất 1 năm mới hoàn thành. Xin giao nhiệm vụ thi công sửa chữa cho thần. Jaravant này nhất định sẽ khôi phục trạng thái ban đầu trong vòng 1 năm.”
Arslan gật đầu. Sau khi chỉ thị an táng những người đã hy sinh, tìm kiếm người mất tích, chàng bảo hai vị tướng quay về.
“Có vẻ như ngài Jaravant đã lấy lại tinh thần.”
“Đây là chuyện tốt. Một người dũng mãnh như ngài ấy mà chán nản quá lâu, những người xung quanh cũng ủ rũ theo.”
Chỉ có Narsus mới có thể nói ra những câu như thế. Dariun khẽ lắc đầu.
“Cuối cùng cũng tìm được sào huyệt của bọn quỷ, vậy mà lại mắc vào bẫy của chúng.”
“Chúng ta cần tăng cường cảnh giác hơn nữa ở những bể chứa nước hay đường dẫn nước thế này. Nếu chúng đầu độc nguồn nước thì nguy to đấy.”
“Vậy phải làm gì với tên pháp sư kia?”
“Ngày mai ta sẽ suy nghĩ.”
Dariun và Jimsa rút lui để đi hỗ trợ Kishward. Đúng lúc này, một sứ giả tìm đến, giao cho Narsus lá thư.
-----------------------
“Tin tốt!”
Narsus đọc qua một lượt rồi gật đầu, sau đó rút một chiếc hộp quý đựng bút lông trong ống tay. Trong phủ phó tể tướng có đến mấy vạn cuốn sách, còn cố vô số bút lông quý giá được mang từ Serica về. Tuy nhiên, lúc này Narsus không dùng nó để vẽ tranh mà để viết.
“Chuyện gì vậy, ngài Narsus?”
“Elam đất hả? Có tin từu biên giới phía đông bắc. Từ tháng 7, hình như có một nhóm chiến binh Turk lang thang khắp nơi, nhưng chúng không làm gì, chỉ thăm dò tình hình.”
Elam chớp mắt, “Vậy là tin tốt ư?”
“Nói đúng hơn thì là tin tốt trong tương lai. Vẫn hơi sớm để báo với bệ hạ nên ngươi đừng đề cập tới.”
Sau khi viết ba lá thư, Narsus và Elam cùng đến cung điện gặp nhà vua. Elam đến vì có việc phải làm, còn Narsus thì tới cùng uống trà.
“May là đã ngăn được Dariun.”
Arslan vừa nói vừa thêm mật ong vào trà đen, nhưng chàng bất chợt dừng khuấy chiếc thìa trong tay lại, nhìn Elam.
“Có chuyên gì vậy Elam?”
“À vâng, thần chợt nhớ ra một chuyện, có thể báo cáo với bệ hạ được không?”
“Đương nhiên rồi, Elam, cậu có thể nói với ta bất cứ chuyện gì. Nếu cậu đắn đo như vậy thì hẳn là vấn đề đáng ngại.”
Elam cúi đầu chào nhà vua, nói.
“Là về gươm báu Rukhnabad.”
Đó là một đề tài bất ngờ nên không chỉ Arslan mà cả Narsus cũng ngẩng lên
“Chuyện xảy ra trước khi Arslan bệ hạ lên ngôi, một con rắn kỳ lạ xuất hiện trong cung điện, chắc người còn nhớ. Danh tính thực sự của con rắn đó là một gã pháp sư. Hắn biến thành rắn và định giết bệ hạ, cướp lấy thanh gươm.”
“Ồ, ta vẫn nhớ. Sam tình cờ có mặt ở đó và đã liều mình bảo vệ kiếm.”
Giọng Arslan mang đầy tiếc thương.
Trước kia, Pars từng tự hào về 12 vị marzban, ai nấy đều là những chiến binh dũng mãnh vô song. Sam là một trong số họ, nổi tiếng với lòng trung nghĩa và sự cẩn trọng.
Khi tên pháp sư biến thành rắn, đột nhập vào cung điện để đánh cắp gươm báu Rukhnabad, Sam dùng thân mình bảo vệ kiếm. Cuối cùng, ông bị con rắn hút hết sinh mệnh, hy sinh anh dũng.
“Bây giờ lỡ có ai đó xuất hiện và nhắm đến gươm báu thù sao? Chúng ta có nên tăng cường an ninh không?”
“Chúng ta đang cần tăng cường canh gác ở nhiều nơi, không đủ binh sĩ đâu.”
Arslan cười cay đắng.
“Ta sẽ bảo vệ Rukhnabad. Chỉ ta là đủ rồi.”
Arslan nhấp chút trà đen, thong thả tận hưởng mùi hương thanh nhã.
“Người ta nói các vị tiên vương của Pars chỉ là công cụ của gươm báu Rukhnabad mà Vua anh hùng Kai Khosrow truyền lại….”
Chàng ngẫm nghĩ một hồi, dường như đang tìm lời thích hợp.
“Ta lại tự coi mình là chỗ dựa cho người dân Pars. Người dân và ta kết nối với nhau bởi Rukhnabad. Vì thế, Rukhnabad là kho báu thiêng liêng của Pars.”
Narsus chăm chú nhìn vị vua trẻ, chợt hỏi.
“Bệ hạ, người học được điều đó từ đâu?”
Arslan mơ hồ đáp.
“Ta là học trò của ngài mà, Narsus. Hẳn là ngài đã dạy cho ta chứ.”
“Không, thần không dạy người. Thần không tin chuyện tâm linh.”
“…..Cũng phải.”
“Bệ hạ đã tự mình chiêm nghiêm được. Những kinh nghiệm trong quá khứ của người đã giúp người hình thành nên tư tưởng riêng.”
“Narsus….”
“Bệ hạ, người đã trở thành một vị vua thực sự rồi.”
Narsus đứng dậy, đi đến chỗ Arslan, quỳ một gối xuống như thể hoàn toàn bị khuất phục trước uy quyền của chàng. Anh đặt trán mình lên mui bàn tay của Arslan.
“Vua của ta, vua vĩnh cửu!”
“….”
“Ta vô cùng vinh dự khi được phụng sự người. Dù Narsus ta không có tài năng đức hạnh gì đáng nói, nhưng ta một lần nữa thề nguyện trung thành với người.”
Elam lặng lẽ quan sát, không giấu nổi sự phấn khích.
“Ta mới phải lấy làm vinh dự.”
Dù Arslan rất ngạc nhiên trước hành động bất ngờ của Narsus nhưng chàng không bối rối. Chàng đưa tay trái, đỡ trán của Narsus, để nó rời mu bàn tay mình.
“Chính vì ta nhận được sự phò trợ của chiến lược gia thông thái nhất trên Đại lục vương lộ. Chính nhờ ngài, Dariun và Elam đã gắng sức vì ta. Dù thế nào đi nữa, ta nhất định sẽ tiếp tục tiến bước. Ngoài cách đó ra, ta không biết phải làm sao mới trả được ơn nghĩa của các vị.”
Ngay khi Narsus định đáp lại thì giọng một thị vệ vang lên, báo rằng có một người đàn ông đến tìm gặp nhà vua theo lời triệu tập.
“Ta muốn tặng Kishward đôi song kiếm mới nên gọi thợ rèn đến đây, không thể để anh ta chờ được. Narsus, ngài hãy nghỉ ngơi một lát. Elam, giúp ta những chuyện còn lại nhé.”
Sau khi Arslan được người thị vệ tên Nadam dẫn ra ngoài. Narsus im lặng hồi lâu. Nhưng khi Elam chuẩn bị lên tiếng gợi chuyện trước thì Narsus chợt thì thầm.
“Elam, ta bỗng rùng mình vì một linh cảm đáng sợ.”
“Ngài Narsus, chuyện gì vậy?”
“Ngay cả Arslan bệ hạ….”
Narsus nuốt xuống những lời này. Vị chiến lược gia khôn ngoan và điềm tĩnh bậc nhất, khiến cả kẻ ngạo mạn như Gieve cũng tâm phục khẩu phục, vậy mà giờ đây không kìm nến đước sự run rẩy trong giọng nói và đôi tay mình. Anh có một linh cảm, rằng một cảnh tượng rất đáng ngại sẽ xảy đến. Khi vừa nói ra, Narsus thật sự tin rằng đièu đó sẽ thành hiện thực.
Anh nhấm mắt lại một lúc, rồi mở ra. Anh nắm chặt hai vai người học trò yêu quý, giọng nói khàn đi.
“Elam, ngươi theo ta đã gần 13 năm rồi.”
“Vâng.”
“Vậy hãy hứa với ta một chuyện.”
“Ngài Narsus, ngài nói gì vậy?”
“Ngươi sẽ sống lâu hơn ta và Dariun ít nhất là 13 năm để bảo vệ Arslan bệ hạ.”
Elam há hốc miệng, chăm chú nhìn chủ nhân.
“Hứa với ta đi.”
“Tôi sẽ cố hết sức.”
“Không, ngươi thề đi.”
“….”
“Hãy thề mau lên.”
Elam hạ quyết tâm, tập trung vào những lời mình nói.
“Vâng, tôi thề!”
Lúc này, Narsus mới thở phào.
“Thật sao? Tốt lắm, Elam. Ta sẽ giao mọi chuyện cho ngươi.”
Nhiều năm sau, Elam vẫn không quên được vẻ mặt và giọng nói của thầy mình khi ấy.
“Mùa chay giữa hè” đã gần kết thúc. Ở những khu vực quanh kinh đô Ecbatana, không khí cuối hè tràn ngập ngay khi vào tháng 8. Quán rượu giảm giá hết cỡ đến bán hết hàng trước khi trở lạnh. Các loại trái cây thu như lê và nho bắt đầu xuất hiện ngoài khu chợ.
Trong thời gian này, hai tướng lĩnh Kubard và Merlane vẫn đang bận rộn giải quyết hậu quả trận chiến ở pháo đài Peshawar.
Hai tướng Gurazeh và Tus đến cảng Gilan bằng đường thủy ngày 20 tháng 7. Họ ở đó 5 ngày để chuẩn bị đủ vật tư, chất lên những xe hàng lớn và vận chuyển đến Ecbatana bằng đường bộ, dự kiến ngày 10 tháng 8 sẽ đến nơi.
Vì vậy, ngày 27 tháng 7, ở kinh đô chỉ có 11 vị tướng gồm Kishward, Dariun, Narsus, Elam, Farangis, Alfarid, Jaravant, Jimsa, Jaswant, Isfan và Gieve.
11 người này đã có cuộc gặp gỡ hỏi thăm nhau vội vàng cuối tháng 7. Sau khi gửi lời chào, người nọ bắt chuyện với người kia, nội dung na ná giống nhau, cho đến khi có người nói cứ thế này thì mất cả ngày.
“Chúng ta tập trung lại nhé. Ngày 30 tháng này sẽ có một cuộc họp để báo cáo những tin tức quan trọng.”
Kishward truyền đạt với các tướng lĩnh vào ngày 27 tháng 7. Dù chỉ một câu nói ấy thôi nhưng anh phải chạy đôn chạy đáo khắp nơi để chuyển lời, rồi cũng phải nhận về vô số lời oán thán của các vị ấy nữa. Khi đến xin phép vua Arslan, với khí chất hào sảng thường thấy, vị vua trẻ tuổi lập tức hứa.
“Ngài có thể sử dụng bất cứ căn phòng nào trong cung điện.”
Có một vài phòng trong cung điện được chuẩn bị riêng cho các cuộc họp, hiện giờ tất cả đều trống.
“Triều đình” Arslan có quy mô không bằng 1/10 thời kỳ vua tiền nhiệm Andragoras đệ tam. Mà ngay bản thân Andragoras đệ tam cũng không phải một vị vua xa hoa rồi. Những lúc hoàng hậu Tahamine cùng những người hầu không có mặt, ông thậm chí còn không yêu cầu thắp đèn bên cửa sổ.
Nhưng Arslan thì quả thực tằn tiện đến một trình độ khác. Chàng cảm thấy một phòng ngủ, một phòng tắm và một phòng làm việc là đã đủ lắm rồi. Sau khi lên ngôi, chàng cho khôi phục lại một phần cung điện. Dù sao cũng không thể để nó hoang phế, hơn nữa việc tái thiết cũng tạo thêm cơ hội việc làm cho người dân đang khốn khó lúc bấy giờ.
Cho đến giờ, tể tướng Lucian đã hàng chục lần khuyên răn vị vua trẻ.
“Nếu không trang trọng được bằng vua Rajendra nước láng giềng thì các sứ thần ngoại quốc sẽ nghĩ sao?”
Ngay cả Rajendra đị nhị của Sindhura, người được nhắc đến trên này, cũng tận hưởng cuộc sống xa hoa trọn vẹn nhưng chưa từng vượt quá giới hạn của một vị vua. Suy cho cùng, làm gì cũng phải tùy tình hình tài chính quốc gia.
Nghe lời khuyên của Lucian, Arslan chỉ biết cười gượng.
“Nếu ta mà sống xa xỉ như Rajendra thì chắc ta sẽ không còn là mình nữa.”
“Rồi người sẽ quen thôi. Nếu bề trên như người sống quá giản dị thì bên dưới cũng không dám thoải mái.”
Có lẽ đúng vậy thật. Dù Arslan gật đầu nhưng hóa ra cuộc sống đơn giản lại phù hợp với tính cách của chàn ghơn. Chàng không thích bị giam trong cái lồng vàng, muốn được tự do bay nhảy, khiến cho Lucian và Elam cực kỳ lo lắng.
Nhân tiện, nói về chức danh chính thức của Elam, là “Đội trưởng đội cận vệ.” Vào thời hoàng kim của quân đội hoàng gia cũ, chức này chỉ huy từ 5 ngàn đến 1 vạn quân, nhưng thực tế hiện nay, Elam chỉ là người hầu chuyện nhà vua, dưới trướng anh ta chỉ có khoản 100 người.
Ngày 27 tháng 7 lịch Pars cũng là ngày Hilmes tuyên bố lên ngôi ở Mirs. Không ai ở kinh đô Ecbatana biết tình hình vương quốc Mirs lúc này, họ chỉ cảm nhận được sự ồn ào phía bên kia biên giới.
Hilmes quả thực đã nắm quyền cai trị Mirs chỉ sau một đêm, và cũng không hay biết tình hình ở Pars. Đôi bên đều chẳng khác gì nhau.
Điều đầu tiên Arslan được thông báo là cuộc chiến chống lại đội quân quỷ dữ ở núi Demavant và thành Peshawar. Người đưa tin chính là Sứ giả thần chết Azrael.
Azrael đáp xuống sân thượng cung điện sáng ngày 5 tháng 7. Dù những bức thư do tướng Kubard đích thân viết nhưng văn chương của ngài marzban một mắt không hề dài dòng. Chỉ qua ba câu, Arslan đã nắm được tình hình. Trận tấn công và phòng thù vô cùng gian khó.
Muốn biết chính xác những gì đã xảy ra thì phải chờ những vị tướng quay trở lại. Tuy nhiên, trớ trêu là chiều ngày 5 tháng 7, sứ giả từ Solymania cũng đã đặt chân đến kinh thành.
Người đưa thư khẩn toàn thân đầy mồ hôi và bụi bặm, thậm chí át cả mùi rượu rue anh ta xức lên người. Sau khi hớp vội hớp nước, anh ta liền nói.
“Xin lập tức đưa quân cứu viện!”
“Đừng lo, ta đã chi viện cho Peshawar rồi.”
Nghe tướng Kishward nói, anh ta chỉ kịp tạ ơn trời rồi lăn ra bất tỉnh.
Arslan liền gọi Kishward, Dairun, Narsus đến và nói.
“Thật đáng buồn khi nhiều người đã hy sinh nhưng ta hiểu Kubard đã làm hết sức. Dù sao đi nữa, ta cũng không tin có ai chỉ huy trận đánh tốt hơn Kubard. Bản thân Kubard đã chủ động xin lãnh phạt do đê quá nhiều binh lính thiệt mạng nhưng ta vẫn quyết định sẽ khen thưởng cho anh ấy.”
Ba vị tướng đều nhất trí với nhà vua, đồng thời khẳng định những gì Kubard làm xứng đáng với phần thưởng này. Narsus lên tiếng.
“Công lao của ngài Kubard không chỉ là kiên trì bảo vệ thành Peshawar. Phải nói, khi đối mặt với Ilterish, sự quyết tâm ấy thôi đã rất quan trọng rồi.”
Dairun nghiêng đầu.
“Đó có được coi là thành tích không?”
“Là một thành tựu lớn.”
“Chà, Kubard quả là một tấm gương cho các chiến binh. Ta tin rằng điều này cũng thể hiện quyết tâm của quân đội chúng ta. Tuy nhiên, ta không nghĩ Ilterish sẽ chịu từ bỏ Peshawar chỉ vì thế đâu. Hắn vô cùng ngoan cố, nhất định sẽ tìm cách chiếm Peshawar bằng mọi giá.”
“Vậy thì tốt.”
Narsus nói rồi bật cười.
Tên này lại âm mưu gì nữa đây, Arslan, Dairun, Kishward không hẹn mà cùng nghĩ, nhưng họ không hỏi thêm. Bởi họ biết rằng khi cần, người này nhất định sẽ nói, còn khi thời cơ chưa đến, anh ta sẽ không hé răng nửa lời. Dù không biết âm mưu ấy xảo quyệt ra sao, họ vẫn tin trí tuệ của Narsus sẽ ủ mưu ra một kế hoạch hoàn mỹ nhất.
“Ta cảm thấy lần này không nên để Azrael đưa tin nữa mà ta sẽ cử một sứ giả đưa tin, thông báo nội dung chúng ta bàn bạc ở đây cho Kubard. Việc soạn tin có thể nhờ ngài được chứ, Narsus?”
“Vâng thưa bệ hạ. Sớm mai thần sẽ gửi sứ giả đi.”
“Kể cả như vậy thì….”
Arslan nhìn bầu trời qua ô cửa sổ. Trên tầng không xanh thẳm, những đám mây hồnh thưa thớt vắt ngang.
“Theo báo cáo của Jimsa và Gieve, quả nhiên Ilterish của Turan vẫn còn sống.”
Bốn người ngồi quanh tấm bản đồ địa lý xứ Pars. Tất cả các khu vực lân cận biên giới Turan cũ đến Peshawar và Badakhshan đều được đánh dấu bằng đường màu đỏ. Như vậy, họ có thể dùng đường thẳng, kết nối những điểm Iltersish từng xuất hiện.
Điều đó nghĩa là Ilterish liên tục thực hiện các hoạt động từ nam đến bắc, và cả miền đông của Pars.
“So với Gieve và ta, tên Turan này còn nhanh nhẹn hơn.”
Narsus nói đùa.
“Đúng vậy.”
Dariun khẳng định chắc nịch. Cả Arslan và Kishward đều bật cười nên Narsus tức mà không nói gì được.
“Nhưng hắn lăn lộn như thế mới chứng tỏ hắn là tên ngốc.”
Dariun bối rối hỏi.
“Vậy giờ hắn ở đâu?”
Kishward lẩm bẩm, ánh mắt bốn người đều dừng ở một điểm trên tấm bản đồ. Nó nằm ngay trên đường màu đỏ nối liền bắc, nam ở phía đông của Pars. Ilterish trốn đâu đó dọc con đường này.
Kishward tiếp tục.
“Ilterish vừa thiện chiến, vừa xảo quyệt, vừa giỏi cầm quân. Hắn sẽ là đối thủ đáng gờm trên chiến trường đấy.”
Đầu tiên là Jimsa, sau đó 7 vị tướng dũng cảm của Pars là Kubard, Tus, Merlane, Jaswant, Isfan và Gieve đều chiến đấu chống lại hấn mà vẫn không thể tiêu diệt được.
“Hắn trốn càng lúc càng giỏi, chắc là tu luyện cực lắm đấy.”
Narsus đáp lại lời mỉa mai của Dariun.
“Tuy nhiên, Ilterish cũng có nhược điểm.”
“Đó là?”
“Là hắn không chịu bỏ cuộc, cứ nhất quyết bám lấy Peshawar. Vậy thì ta chỉ việc tập trung chăm sóc hắn là được.”
Nói rồi Narsus liền ngậm miệng.
--------------------------
Ngày 30 tháng 7, một cuộc họp diễn ra tại cung điện với sự góp mặt của 11 vị tướng. Tuy nhiên, người đầu tiên Arslan gặp trong buổi sáng hôm ấy lại là Ferdas, viên quan quản lý lăng mộ. Từ tháng 12 năm ngoái, ông vẫn luôn tìm kiếm tên tội phạm đã đánh cắp thi thể vua Andragoras đệ tam mà không có kết quả, nên tìm mọi cách xin từ chức.
“Quả là đáng tiếc khi chưa xác định được danh tính tên trộm mộ. Nhưng ngoài nhiệm vụ quản lý lăng mộ ra, ngài vẫn còn nhiều công việc khác. Ta không phê duyệt yêu cầu từ chức của ngài được, ngài hãy tiếp tục chức vụ đó.”
Mệnh lệnh của Arslan rõ ràng để an ủi Ferdas. Ferdas dập đầu sát đất.
Arslan đúng là một vị vua khoan dung, nhưng chàng làm vậy cũng có lý do khác nữa. Pars đã mất đi quá nhiều nhân tài sau cuộc xâm lược của Lusitania và không thể lấp đầy chỗ trống này trong vòng 5 năm. Nếu quan viên không mắc sai lầm quá nghiêm trọng mà cứ cách chức thì lấy đâu ra người thay thế họ đây.
Ferdas cảm động trước sự nhân từ của nhà vua. Ông ta tạ ơn rồi xin lui. Tướng Kishward tình cờ thấy ông ta rời cung điện, bèn nói với Dariun.
“Ta nghĩ giá mà ngài Sam và ngài Shapur còn sống thì chẳng phải sợ Ilterish làm gì.
“Nếu họ còn sống thì đương nhiên là rất tuyệt, nhưng chẳng phải có những đồng đội mới như Gieve và Merlane cũng rất may mắn sao?”
“Ngài nói phải.”
Kishward gật đầu, vuốt bộ râu luôn được cắt tỉa gọn gang của mình, cười.
“Kể từ sau cuộc xâm lược của quân Lusitania, một lớp nhân tài mới đã xuất hiện. Pars thay da đổi thịt rồi. Ta mới 34 tuổi mà đã thấy mình già.”
“Sau khi trưởng thành, người ta hay nói vậy.”
“Phải, nhưng đó là sự thật.”
Một lúc sau, các vị tướng khác cũng lần lượt được mời vào chỗ ngồi.
“Quả nhiên là phong cách của bệ hạ.”
Trước sự chào đón của Jaswant và Alfarid, Arslan không ngồi ghế trên. 13 chiếc ghế được sắp thành vòng tròn có đường kính chừng 4 gaz, và mọi người tham dự đều có đãi ngộ như nhau. Tể tướng Lucian ngồi bên trái nhà vua, tướng quân Kishward ngồi bên phải, nói một cách nào đó thì cũng có thể xem là ghế trên. Tuy nhiên, trước mặt nhà vua là Narsus, và bên cạnh anh ta là Dariun, hai vị trí này không thể coi là ghế dưới được.
Mọi người đều đã vào chỗ. Bắt đầu từ Arslan, lần lượt về bên trái là Lucian, Jaswant, Jimsa, Jaravant, Dairun, Narsus, Alfarid, Farangis, Gieve, Isfan, Elam và Kishward. Cửa sổ để mở cho gió lùa vào. Tuy nhiên, để ngăn kẻ thù đột kích, lính canh được bố trí bên ngoài, thậm chí cả trên sân và mái nhà.
Cuộc họp bắt đầu vào buổi sáng và kéo dài đến tận buổi tối. Những người tham dự đều được chia sẻ một lượng thông tin lớn.
Cái chế của Zandeh ở Mirs. Cái chết bất ngờ của Mundhir, lãnh chúa vùng Oxus, cũng là cha của Jaravant. Trận chiến trong mê cung dưới lòng đất ở núi Demavant. Những cuộc tấn công và phòng thủ ở pháo đài Peshawar. Những chuyện lạ xảy ra ở “khu vườn cao nguyên” thuộc lãnh thổ công quốc Badakhshan cũ…
Mỗi khi có người báo cáo, những thành viên tham dự đặt câu hỏi, rồi mọi người bắt đầu thảo luận sôi nổi. Nếu có quá nhiều thông tin lẫn lộn, Narsus sẽ bình tĩnh tóm tắt lại và sấp xếp các ý chính.
Vì là con nên Jaravant đã được biết về cái chết của cha mình, Mundhir. Anh nghe điều đó từ Farangis và Alfarid trước cả nhà vua. Vì vậy, trong cuộc họp ngày 30, dù chỉ là nghe lại thôi, không còn là thông tin mới nữa nhưng đôi vai to lớn của anh ta rũ xuống, đầu cúi gằm. Isfan và Jaswant cảm thấy rất tiếc nuối, không biết phải nói gì để an ủi anh ta.
Cuối cùng, Jaravant lên tiếng.
“Thật là một câu chuyện khó tin. Ý thần là, chuyện chiếc vòng bạc. Dù lệnh bà nói thật đi chăng nữa, cô gái tên Leila kia đâu nhất định là con của người?”
Vì chuyện này liên quan đến thân phận của Arslan nên rất khó đề cập. Tuy vậy, Jaravant sẵn sàng đưa ra ý kiến của mình mà không cảm thấy e ngại gì nên các tướng lĩnh khác cũng lần lượt nêu quan điểm. Cho đến giờ, vẫn chưa ai có luận điểm nào thuyết phục.
“Thú vị thật.”
Người nói là Narsus. Dariun liền hỏi.
“Cái gì thú vị?”
“À, nếu cô Leila đó thực sự là con của lệnh bà nhưng uống máu Xà vương và trở thành bề tôi của hắn, thế chẳng phải cũng là hậu duệ của Kai Khosrow, vị vua anh hùng đã đánh bại Xà vương sao? Con cháu của vua mà lại về phe địch à?”
Dariun liếc nhìn Arslan, cau mày.
“Chỉ là nói đùa thôi mà.”
“Thôi đi.”
Sau đó, Narsus qua về dáng vẻ lạnh lùng thẳng thắn, nhìn những người xung quanh.
“Nhưng chỉ dừng ở đó thôi. Nếu mọi chuyện đi xa hơn, Narsus ta sẽ không tha thứ. Dù cô ta có là con của lệnh bà nhưng một khi trở thành tay chân của Xà vương thì chuyện gì sẽ xảy ra. Đúng là mỉa mai.” Hoàng gia Pars cuối cùng chỉ là thứ đồ trang trí. Nó không liên quan đến vị vua hiện tại, cũng như vương quốc hiện tại.
Anh không hề tuyên bố hùng hồn, nhưng mọi người đều im phăng phắc. Người đầu tiên phá tan bầu không khí căng thẳng là Alfarid khi cô ngập ngừng nói.
“Nhưng có lẽ Leila cũng không tự nguyện…”
“Chắc chắn Leila đã gặp phải chuyện gì đó. Ilterish cũng vậy. Tuy nhiên, chúng ta không cần quan tâm đến những chuyện này. Chẳng bao lâu nữa, đội quân ma quỷ sẽ kéo đến kinh đô hoàng gia, phát động một cuộc tấn công quy mô lớn. Thời điểm đó đến, nếu ai thấy Leila hoặc Ilterish trước đội hình quân địch thì phải giết ngay, không thương xót.”
“….”
“Nếu có ai do dự khi đối đầu đội quân quỷ chỉ vì tình bạn hay mối quan hệ trong quá khứ thì kẻ đó đang đặt tình cảm cá nhân của mình lên trên đất nước này. Dù nhà vua có rộng lòng tha thứ, Narsus ta cũng không để kẻ đó sống sót. Các vị hãy nhớ lời này.”
Ai nấy đều đồng tình rằng kiếm thuật của Narsus đạt đến trình độ thượng thừa. Tuy nhiên, điều khắc biệt nằm ở trí tuệ sắc sảo và ý chí kiên cường của anh ta. Điều đó khiến các chiến binh dũng cảm nhất cũng phải e sợ. Ba vị tướng Kishward, Dariun và Farangis đều lặng lẽ cúi đầu, đặt nắm tay lên bài. Các tướng lĩnh khác cũng lần lượt làm theo, âm thầm khẳng định họ hứa sẽ tuân theo chỉ thị của quân sư.
Chỉ có Alfarid nhìn Narsus như muốn nói cô không biết phải làm gì, nhưng chỉ thoáng qua thôi, sau đó cô cùng đặt nắm tay xuống, cúi đầu sâu hơn bất cứ ai.
Người tên Narsus này có chức danh chính thức là họa sĩ cung đình, nhưng có thể coi là vị tướng thông thái nhất mọi quốc gia trên khắp Đại lục vương lộ. Anh sống đúng như kỳ vọng, đem về hết chiến thắng này đến chiến thắng khác cho quân Pars. Trí tuệ của anh như ngọn đèn thắp sáng đêm tối, chỉ đường cho những con người đang hoang mang, và được những chiến binh trực tiếp lăn xả trên chiến trường thừa nhận.
“Narsus.”
Giọng nói của Arslan vang lên, phá tan sự im lặng. Narsus bấy giờ mới như sực tỉnh, cúi đầu thật thấp trước vị vua trẻ.
“Thần không nhận ra đã nói những lời mạo phạm trước đức vua. Xin người giáng tội.”
“Không sao đâu, Narsus. Ngài chỉ nói thay những lời ta nên nói mà thôi.”
Arslan ngồi thẳng tại đó.
“Ta, vua của Pars, sẽ chịu trách nhiệm cho tất cả. Những người bạn thân mến của ta, hãy tuân theo chỉ dẫn của Narsus mà không cần do dự. Dù điều này khiến mẫu hậu ta phiền lòng, nhưng ta sẽ tạ lỗi với bà. Các bạn thân mến, đừng lo lắng gì cả.”
Một đám mây lớn lơ lửng giữa tầng không, che khuất ánh mặt trời chiếu qua ô cửa sổ. Trong chiếc ghế hơi khuất, giọng nói của nhà vua lặng lẽ vang lên.
“Có một người con như ta quả là điều đáng buồn, nhưng mang tội với đất nước còn đau đớn hơn. Ta phải coi máu của dân hơn nước mắt của mẹ mình. Đây là nghĩa vụ của vua một nước. Nếu ta quên điều này, mong các vị nhắc nhở.”
11 vị tướng có mặt lúc này đều mang tâm trạng khác nhau. Có những người từng phục vụ trong triều đình cũ, có những người chưa từng bước chân vào chốn quan trường, có những người đã gặp thái hậu Tahamine, cũng có người chưa từng nghe về bà ấy, có người từng coi Pars là kẻ địch, có người lại nhất mực trung thành từ lúc sinh ra….
Tất cả được kết nối với nhau bất kể địa vị, tính cách. Đó là vua Arslan. Nhờ sự hiện diện của chàng, mọi người đoàn kết lại. Họ im lặng thấu hiểu rằng, không ai thay thế được vị vua này.
------------------------
Sau khi giải tán, mỗi người đều đã nắm được lượng thông tin lớn và chắc sẽ mất rất nhiều thời gian để nghiền ngẫm.
Sau khi chào tạm biệt, Arslan tiễn từng người ra cửa. Ba người cuối cùng rời đi là Kishward, Dariun và Narsus. Họ lặng lẽ nói chuyện với nhau trong khi nhìn bóng lưng nhà vua đang hỏi han Alfarid và Gieve.
Narsus nói.
“Dù Ilterish đã về phe Xà vương nhưng hắn chỉ là một chiến binh chứ không phải một chiến lược gia.”
“Vì sao ngươi nghĩ thế?”
“Vì hắn không bất thái hậu làm con tin.”
Nghe Narsus nói, Kishward và Dariun sững người. Nhìn Arslan, Kishward rên rỉ.
“Đúng vậy. Nếu thái hậu bị bắt làm con tin, Arslan bệ hạ sẽ rất kích động.”
“Có cần gửi lính đến bảo vệ dinh thự của thái hậu không?”
Narsus lắc đầu với Dariun.
“Không, làm thế sẽ để lộ điểm yếu cho kẻ thù. Cứ lờ đi.”
“Nhưng lỡ đâu….thái hậu bị Ilterish sát hại….”
“Vậy thì chúng ta không cần lo thái hậu bị bắt làm con tin nữa. Còn với Arslan bệ hạ, Xà vương sẽ trở thành kẻ thù giết mẹ. Người sẽ đích thân chiến đấu với hắn đến cùng, không bao giờ lùi bước.”
Dairun nhìn Narsus, người đang toe toét cười với cặp mắt nghi ngờ.
“Ngươi nói thế là sao? Narsus, bạn của ta, dù kết quả như vậy cũng không vấn đề gì ư? Hay nói đúng hơn là ngươi mong mọi chuyện sẽ diễn ra như thế?”
“Sao vậy được? Ta đâu xấu xa đến vậy.”
Rồi anh ta lập tức đổi đề tài, không cho người bạn bắt bẻ thêm.
“Thôi đừng nói về giả thuyết này nữa. Có vẻ như mấy cây cọ vẽ chất lượng cao mất nửa năm để gửi về từ Serica sẽ được giao đến ngày hôm này.”
Các vị tướng lên đường về nhà. Bóng của họ đã dài hơn.
Tướng Kishward vẫn đắm chìm trong suy nghĩ khi cưỡi ngựa trên phố, quay về dinh thự của mình. Người vợ Nasrin mỉm cười chào đón anh. Bên cạnh cô là đứa bé Jimsa mang về từ biên giới. Cô bé cúi đầu thật sâu, chào Kishward.
Cô bé rất ngoan ngoãn, dù không nói được nhưng luôn vui vẻ. Vợ của Kishward, Nasrin không sai bảo cô việc gì nhưng cô vẫn chủ động đi quanh nhà, giúp đỡ nhữn gngười hầu. Từ dọn dẹp, giặt giũ, chăm sóc ngựa và đủ thứ linh tinh khác. Không biết có phải vì rất thích cô bé này không, Aiyar, được những người lớn gọi là “tướng quân của 50 năm sau” luôn đi theo cô.
Nasrin rất muốn cô bé tháo vát và chăm chỉ này làm con dâu mình. Thấy Aiyar lẽo đẽo sau lưng cô, vị tướng quân vuốt chòm râu gọn gang, mỉm cười xoa đầu cả hai.
Không chỉ cô gái này mới trở thành cư dân kinh thành những ngày gần đây. Còn có Aisha đang đi cùng Gieve và Isfan nữa.
“Nếu cô đã tập làm tư tế một thời gian thì có thể đến nhà tôi, phụ giúp tôi vài việc.”
Nghe Farangis nói vậy, Alfarid cũng lên tiếng.
“Hoặc là đến nhà tôi. Chúng ta cùng là những người tu tập thất bại, chắc sẽ có điểm chung.”
Alfarid cảm thấy rất gần gũi với cô gái này, nhưng Farangis không nói gì về điều đó.
Sau cuộc họp, Alfarid tâm sự với Farangis.
“Dù sao đi nữa, chuyện gì đã xảy ra với Leila….”
Những gì nghe được từ Gieve và Isfan khiến Alfarid rất buồn lòng.
“Đừng lo nghĩ nữa. Không phải lỗi của em.”
“Nhưng Leila vốn là một cô gái rất tốt bụng. Cô ấy không muốn trở nên như thế. Thật đáng thương.”
“Đương nhiên chị hiểu, nhưng chúng ta không thể làm gì. Nếu cô ấy bị trúng bùa mê thuốc lú gì đó, chỉ cần khiến cô ấy thức tỉnh là được, phải không?”
Alfarid luôn muốn nói chuyện trực tiếp với Narsus nhưng không có cơ hội.
Về phần Aisha, Aflarid cũng biết chuyện nên rất hứng thú, bèn hỏi Isfan ai đã đưa cô về.
“Cô ấy là người thế nào?”
“Là một cô nàng đi đâu cũng vấp ngã.”
“Đó cũng có thể xem là một loại tài năng.”
“Chỉ mỗi anh nói thế thôi, nhưng vậy cũng đúng.”
Khi Isfan lần đầu nói chuyện với Aisha, cô va phải một người đi đường và ngã. Sau đó, cô cũng ngã lăn ra khi bị thái hậu Tahamine nổi giận tát vào mặt. Luôn là những cú ngã bi thảm với tiếng kêukhốn khổ, và vì nó xảy ra quá thường xuyên nên mới để lại ấn tượng cho mọi người. Theo Isfan, cô gái này cần xem lại phương thức chuyển động cơ thể để giải quyết tình trạng này ngay lập tức.
“Cô gái tên Aisha này từng hầu hạ trong nhà quý tộc nên để cô ấy làm việc trong cung điện đi. Vừa hay gần đây có một cung nữ xin nghỉ vì bệnh cũ tái phát, cần người thay thế.”
Tể tướng Lucian nói thế, và Aisha cưỡi con la đến trước cung điện. Cô được sắp xếp cho một căn phòng trống, liền hái hoa tươi về trang trí, bắt đầu cuộc sống mới.
Có thể nói, Lucian rất xứng với chức tể tướng của mình bởi định hình được phong thái và uy tín từ rất sớm. Những khi vua Arslan vắng mặt, ông luôn ở kinh đô Ecbatana để loại trừ mọi mối lo.
Ông cũng thể hiện những năng lực đối nội vững chắc, có đóng góp lớn trong việc ổn định dân chúng sau giải phóng. Nhưng không phải lúc nào ông cũng có thể đưa ra những ý kiến thông minh trong quân sự và ngoại giao. Ông giao những việc đó cho phó tể tướng Narsus, còn bản thân làm hậu phương cho nhà vua. Arslan rất tin tưởng vị tể tướng này từ tận đáy lòng. Nếu có điều gì khiến chàng bất mẫn đôi chút thì hẳn là liên quan đến việc lập hậu.
Những thế lực quý tộc cũ không hài lòng với nhiều cải cách của Arslan. Cũng có những người tôn thờ huyết thống lan truyền tin tức Arslan không phải con của tiên vương Andragoras theo hướng tiêu cực. Cũng có nhiều kẻ cổ hủ ghét Narsus và Gieve, gọi họ là lũ “ngông cuồng, không biết trên dưới”. Tuy nhiên, vì có Lucian một lòng ủng họ nên những tiếng phản đối của bọn họ cũng chẳng lớn hơn được.
Một lần nọ, Arslan vô tình hỏi.
“Tể tướng không thích một kẻ luôn làm theo ý mình như Gieve đúng không?”
Lucian nghiêm túc đáp.
“Không không không, nhìn thấy ngài Gieve, thần lại nhớ đến chính mình hồi trẻ, cảm giác rất hoài niệm.”
Nghe câu này, không chỉ Arslan mà cả Elam cũng giât mình. Lucian nói rồi đi luôn, để lại hai chàng trai thì thầm với nhau.
“Ngài Lucian nói nghiêm túc đấy chứ?”
“Có thể nào là đùa không?”
“Kể cả có đùa, ta chắc rằng ngài ấy sẽ không đùa kiểu đó. Nghĩ mà xem, ngài ấy đủ tuổi làm cha ta. Quả thực có một số chuyện trong quá khứ mà chúng ta không thể nào biêt được.”
Lucian từng là lãnh chúa vùng Ray, nhưng trước khi thừa kế vùng đất, ông từng suýt rơi vào tình trạng khuynh gia bại sản. Vì vậy, ông vay tiền của những quý tộc giàu có khác, chuyến lên vùng hoang dã bằng đường thủy, cho phép những người lưu vong đến định cư và canh tác. Bản thông ông cũng tham gia lao động với quần chúng, nghe tiếng nói của họ và nỗ lực cải thiện.
Phải mất 20 năm, sản lượng trồng trọt và chăn nuôi trên lãnh địa của ông mới tăng lên gấp 3, rồi dân số tăng gấp đôi, Trường học, trạm xá được xây dựng, cây xanh phủ bóng hai bên đường. Số tiền vay được hoàn trả đầy đủ cả gốc lẫn lãi. Trong thời gian đó, có nhiều cuộc chạy đua vũ trang nhằm giành quyền thừa kế diễn ra ở khắp nơi. Mỗi khi hai bên chuẩn bị xung đột, ông đã bình tĩnh đứng ra hòa giải, nhận được sự tôn trọng của giới quý tộc.
Nhiều chiến tích như vậy được truyền đến Ecbatana, vì thế ông được vua Andragoras mời về làm thư ký triều đình. Ông làm ở bộ dân chính được 2 năm, được dân chúng và cấp dưới vô cùng yêu mến, nhưng sau đó, dường như ông vướng vào một cuộc tranh chấp bí mật trong cung điện nên xin quay về lãnh địa của mình với lý do chăm sóc người mẹ già yếu. Từ đó trở đi, ông không tham gia sự vụ nào, sống cuộc sống bình yên của một quý tộc, mãi đến khi đầu quân cho Arslan.
Vì ông có dáng vẻ điềm tĩnh, dản dị, nói năng điềm đam, “hai mươi mà trông như ba mươi”, nên ai cũng nghĩ rằng ông sẽ không hợp với kẻ sống phù phiếm như Gieve. Điều này khiến người ta liên tưởng đến câu tục ngữ của Pars, “Cây bám rễ ghen tị với co chim không rễ.”
Không ai phản đối việc bổ nhiệm Lucian làm tể tướng. Tuy ông đã tại chức gần 4 năm nhưng trong vòng 5, 6 năm tới, có lẽ sẽ không gặp phải đối thủ nào. Trên thực tế, Lucian rất danh tiếng, nhưng ông lại nhớ quê và sớm muốn từ chức nghỉ hưu. Ông muốn Narsus làm người kế nhiệm mình nhưng anh ta luôn tìm cách thoái thác.
Đó cũng là tính xấu của Narsus. Anh ta là người không có chút đam mê nào với địa vị và danh tiếng. Kể cả phong là tể tướng, anh cũng sẵn sàng vứt bỏ bất cứ lúc nào. Chỉ có mỗi một thứ mà anh chàng thông mình này không chịu từ bỏ, đó là danh hiệu “Họa sĩ cung đình.”
“Nếu không còn được làm họa sĩ cung đình nữa thì ta chết mất.”
Vị tướng thông thái nhất Đại lục vương lộ nói thế mà chẳng thèm suy nghĩ. Hiện giờ, anh ta vẫn điên cuồng lùng mua những bức tranh và bút vẽ với giá cao.
Trên đời còn có kẻ phung phí như vậy ư? Dariun nói, kèm theo vẻ mặt không thể nào cảm thông nổi.
------------------------------
Gia tộc lãnh chúa Oxus là một trong số ít các gia tộc có tiếng ở Pars. Nhưng tộc trưởng Mundhir mất tích, em trai Kaimain của ông ta bị Alfarid giết, con trai Kaimain là Namod cũng bặt vô âm tín. Người duy nhất còn sống trong gia tộc này là Jaravant, con trai Mundhir.
Khi biết chuyện, vua Arslan đã bảo Jaravant về quê mấy ngày để giải quyết việc riêng nhưng anh kiên quyết từ chối. Những công trình công cộng quanh kinh đô hoàng gia đang được xây dựng, cho nên người chỉ huy thi công như anh không thể vắng mặt.
“Nếu không muốn về thì không cần miễn cưỡng cũng được.”
Arslan nhận thấy điều này nên không thúc ép Jaravant nữa. Tuy nhiên, dù còn trẻ nhưng chàng suy nghĩ rất thấu đáo, liền ra lệnh cho tể tướng Lucian chuẩn bị giao quyền thừa kế lãnh địa vùng Oxus cho Jaravant. Ngay trong ngày, văn bản đã được trình lên cho nhà vua, và đến tay lãnh chúa mới.
Jaravant cầm lấy giấy chứng nhận thừa kế và bật khóc. Anh biết ơn nhà vua, đồng thời nhớ đến những năm tháng khó khăn nhất của cha và gia đình mình, cũng như thời thơ ấu ở quê hương. Nghĩ vậy, anh không kìm được cảm xúc. Đến tận khi về tới nhà, anh vẫn khóc thút thít. Đám người hầu trông thấy và rất xót xa nhưng không biết nói gì.
Jaravant chưa có vợ nhưng anh cũng có một vị nữ quản gia tên Juliana, người phụ trách mọi việc trong nhà. Bà ra lệnh cho người hầu Halim.
“Mau chuẩn bị nước tắm cho ông chủ.”
“Vâng, xong ngay đây.”
Halim là chàng trai làm việc ở nhà tắm công cộng trên phố Ecbatana. Vì tình cờ nghe được cuộc trò chuyện bí mật giữa lũ quỷ mặt chim mà tính mạng của anh ta gặp nguy hiểm. Cuối cùng, anh được Arslan cho tị nạn ở nhà Jaravant. Ban đầu, anh định dùng tiền tiết kiệm để mở một nhà tắm công cộng riêng, nhưng giờ lại tận hưởng cuộc sống thư thái ở nơi an toàn này. Không ai giỏi hơn anh trong việc phục vụ ở nhà tấm. Và vì anh là người giao tiếp giỏi, biết đủ chuyện trên đời nên rất được Jaravant yêu thích.
“Vì cơ thể ông chủ cường tráng hơn, cần bỏ thêm dược liệu vào nước rồi đun sôi. Lưng của ngài cũng rộng nên cọ lưng cũng nhọc lắm đấy.”
Vừa nói về việc chăm sóc sức khỏe, Halim vừa đấm lưng cho Jaravant, vui vẻ nhận những đồng bạc thưởng.
Dưới trướng Jaravant có một chỉ huy cấp thấp tên Bashani. Xuất thân là quản đốc mỏ bạc ở Badakhshan, anh ta tham gia trận chiến với quân Lusitania theo lời hiệu triệu của thái tử Arslan. Sau khi tới kinh đô hoàng gia, anh ta tìm được người yêu ở đây nên không muốn quay về quê hương nữa, chính thức thành thuộc hạ của Jaravant, sử dụng những kỹ năng của mình cho việc sửa chữa tường thành, khôi phục kênh dẫn nước, đồng thời được giao chỉ huy 500 kỵ binh.
Giống như Bashani, có hơn 500 binh sĩ từ Badakhshan không muốn quay về quê hương mà ở lại kinh đô bởi họ phải lòng các cô gái Ecbatana. Mà con gái Ecbatana lớn lên giữa kinh đô tráng lệ, dù vùng biên giới Badakhshan có đất đai trù phí đến đâu, họ cũng không muốn chuyển về đó. Vậy nên những chàng trai đâu còn cách nào khác là theo người yêu.
Nhưng Ecbatana không có mỏ nên không có cả nghề khai thác mỏ. Trong số những người đồng hương, chỉ có một nửa ở lại làm việc cho quân đội dưới sự chỉ huy của Nashani, còn một nửa đảm nhận các nhiệm vụ khác nhau trong công tác xây dựng công trình dân sự, ổn định cuộc sống mới ở kinh đô.
Lần cuối Jaravant gặp Bashani là vào tháng 7 khi anh ta đến và nói rằng có sự lạ xảy ra, nhưng sau đó, mọi chuyện bị gác lại. Người ta đồn rằng một số công nhân mỏ đá ở khu vực có tên Kallya, ngoại ô kinh thành, đã mất tích.
Ngày 1 tháng 8, Jaravant cùng Bashani đến phố Kaliya cùng hàng chục binh sĩ.
“Ồ, đó không phải ngài Jaravant đấy sao?”
Người dân rất nhiệt tình chào đón. Trước kia, nơi này chỉ có những bức tường đổ nát trải dài khắp con phố, cuộc sống của người dân không thể xem là sung túc. Nhưng từ khi Arslan lên ngôi, đường dẫn nước được khôi phục, các ao hồ được bơm đầy, cát và bùn được gia cố bằng nhựa đường, đồng thời các trạm xá miễn phí cho người nghèo được dựng lên. Người dân có thể tham gia những công việc công cộng và được trả lương, những ai không thể làm việc thì được phát gạo và cháo. Người đích thân chỉ huy các hoạt động ấy tại hiện trường là Jaravant.
“Nhờ có ngài mà cuộc sống của chúng tôi được như bây giờ.”
“Ta chỉ làm theo mệnh lệnh của nhà vua thôi. Muốn bày tỏ lòng biết ơn thì phải bày tỏ với Arslan bệ hạ.”
“Cầu mong đức vua luôn mạnh khỏe. Ngài ấy còn trẻ, tôi hy vọng ngài ấy có thể tiếp tục trị vì đất nước thêm 50 năm nữa.”
“Các vị nói gì vậy? Phải là trăm năm!”
Jaravant rất nổi tiếng trong dân chúng. Tuy anh xuất thân từ gia tộc danh giá nhưng tính tình thẳng thắn, dễ gần và rất hào sảng. Anh thường đến nơi làm việc từ sáng sớm, mang rượu và thịt cho các công nhân. Đôi khi anh tự mình vác những tảng đá lớn, hoặc đọ sức với những người thợ khỏe mạnh nhất một cách tự tin. Khi cần giẫm đất để lấp những vùng bin ngập, ông tặng phụ nữ và trẻ em hàng trăm đồng bạc, đồng thời mời các nghệ sĩ đến để họ cùng nhảy múa hát ca, đạp đến khi đất cứng như gạch ngói. Về mặt xây dựng, anh ta có cái đầu vô cùng nhạy bén.
Jaravant được đưa đến mỏ đá, nơi những người công nhân đang tụ tập.
“Ồ, họ đều là phụ nữ sao?”
“Vâng.”
Jaravant ngỡ ngàng khi thấy những người làm việc ở đây toàn là phụ nữ. Họ muốn tự mình sinh tồn sau khi cha và chồng bị giết trong cuộc xâm lược của người Lusitania.
“Đàn ông đã chết nên phụ nữ phải sống. Những người khỏe mạnh nhất đều đến đây làm việc.’
“Đương nhiên rồi. Nếu có điều gì mang lại sức mạnh cho họ thì đó là sự nhân từ của đức vua.”
Người ta mang cơm trưa cho Jaravant.
“Nơi này là công trường, không có gì ngon. Nếu ngài không chê thì xin mời dùng.”
Trước mặt anh là rất nhiều bánh mì nướng hành, sữa chua, nho khô, chà là và hạnh nhân.
Có năm đại diện của những nữ công nhân đến kể lại tình hình cho Jaravant nghe. Mỗi khi có người biến mất, họ thường bắt gặp một bóng đen kỳ lạ lang thang xung quanh. Họ nói cái bóng xuất hiện từ vách đá cách đây không lâu.”
“Chúng tôi không sợ đàn ông. Nếu gặp phải mấy tay đàn ông không nên thân, hành xử lỗ mãng, mọi người sẽ cùng nhau đuổi hắn đi. Nhưng kẻ này hình như không phải người.”
“Ồ…”
Jaravant nhai bánh mì nướng hành, không ngờ lại ngon như vậy. Vừa cắn một miếng, hương thơm đã lan tỏa trong miệng, khiến anh lập tức muốn uống một cốc bia. Không không, anh lẩm bẩm nhắc nhở mình, đây là nơi làm việc, phải làm việc.
“Vậy đưa ta đến đó xem. Ta muốn tận mắt nhìn.
Những người phụ nữ khỏe mạnh tay cầm xẻng, vây quanh Jaravant. Khi Jaravant bước đi, anh cảm giác như mình là một tù nhân bị áp giả. Bãi đá rất rộng, nắng chiếu trắng lóa.
“Đây, thưa tướng quân.”
Những người phụ nữ chỉ vào một khoảng trống giữa những tảng đá, nom như bia mộ.
Khe nứt chỉ đủ rộng cho một người lính mặc áo giáp đi qua. Jaravat dù cảm thấy có chút uể oải nhưng vẫn đành phủi bụi trên vai, thò người vào xem. Một cơn gió thổi ra từ bên trong sâu hút, vừa nóng nực vừa khó chịu. Khi nó lướt qua mũi Jaravant, anh ngửi thấy mùi hôi.
“Ta hiểu rồi, có vẻ như có ai đó sống ở đây. Chúng ta cần tìm hiểu về gã này.”
Jaravant duỗi cơ thể to lớn của mình ra. Có người hoảng sợ khi chứng kiến tất cả mọi chuyện, chính là Bashani.
“Thưa ngài Jaravant, xin đừng hành động nóng vội. Ngài không chuẩn bị gì sao?”
“Ta mà lại sợ nguy hiểm à?”
“Trong trường hợp này, cẩn thận vẫn hơn. Nếu ngài Jaravant xảy ra chuyện gì, nhà vua sẽ rất buồn lòng. Những kế hoạch xây dựng về sau cũng gặp trở ngại.”
Nghe nhắc đến nhà vua, Jaravant đành từ bỏ ý định. Anh miễn cưỡng chấp nhận lời khuyên của cấp dưới, bèn re lệnh dựng rào gỗ quanh vết nứt rồi hẹn sẽ quay trở lại trong ngày.
-------------------------------
Ngày 2 tháng 8.
Jaravant đến gặp vua Arslan để báo cáo về khe nứt bí ẩn được phát hiện ở mỏ đá vùng Kaliya, đồng thời xin được dân binh lính đến đó tìm hiểu.
Arslan liền đồng ý. Kishward và Dariun khi ấy cũng có mặt. Thực sự hai người họ đều đã phát chán những ngày loanh quanh trong cung điện.
“Cứ để ta đi.”
Thấy Dariun định xung phong, Kishward liền lên tiếng.
“Nếu kẻ địch là cả một đội quân xếp kín đường chân trời, ta sẽ đề nghị ngài làm bạn đồng hành. Nhưng nếu chỉ là đối phó với lũ quái vật lén lút trong lòng đất thì đâu cần “Chiến binh của các chiến binh” phải ra mặt? Thế không phải dùng voi giết kiến hay sao?”
“Thế thì ai sẽ đi đây?”
“Ta sẽ tự mình vào đó.”
Nhìn vẻ mặt quả quyết của Kishward, Dariun thốt lên.
“Eran đích thân ra tay thì chẳng phải còn lãng phí nhân tài hơn ư?”
Dariun còn đang ôm mối hận khi không thể tham gia trận chiến công và thủ thành Peshawar. Anh muốn được chiến đấu với kẻ thù, nhưng đó cũng chính là khao khát của Kishward.
“Lần này ta lấy tư cách eran để ra lệnh, nggài không được phản đối!”
“Ngài thật độc đoán!”
“Ngài nói gì cứ nói, nhưng đây là thẩm quyền của ta. Ngài Dariun, lẽ ra khi được tiến cử làm eran, ngài nên nhận lấy chứ đừng đẩy cho người khác. Nếu vậy thì bây giờ ngài đã ở vị trí được phép quyết định mọi việc rồi.”
“Hả, chuyện đó….”
“Ta ra lệnh cho ngài Dariun phải túc trực trên mặt đất, với sự phụ tá của ngài Jimsa. Cả hai không được lơ là, nhất định phải hành động theo chỉ thị của eran.”
Dariun uất ức đến không nói được câu nào, chỉ biết trơ mắt nhìn Kishward rời khỏi phòng nghị sự. Arslan đang ngồi đọc sách ở bên cạnh, bèn lên tiếng.
“Dariun, lần sau ta sẽ để anh ra trận. Lần này cứ giao cho Kishward đi.”
“Vâng, nếu bệ hạ có lệnh….”
Nhưng không ia ngờ rằng điều này lại dẫn đến một thảm kịch về sau.
Ngày 3 tháng 8, eran Kishward và tướng Jaravant dẫn 200 binh sĩ, tham gia chuyến thám hiểm lòng đất.
Dariun và Jimsa dân 300 quân túc trực trên mặt đất chờ lệnh. Dù bảo họ canh gác ở đây để đề phòng bất trắc nhưng Dariun vẫn không vui, còn Jimsa thì nghĩ mọi người không đề cao cảnh giác lắm thì phải. Đa số bunh lính ở đây đều là tân binh, họ chỉ thong thả cầm giáo đứng nói chuyện.
Lúc này, Elam chạy tới, cầm theo một chiếc giỏ lớn, đưa cho Dariun và Jimsa, đều là quà an ủi do Arslan gửi. Trong đó có rượu vang lạnh, thịt gà nướng, sườn cừu, bánh mì và quả lê tươi. Binh lính thì được phát thịt cừu và bánh mình.
Sau khi cảm ơn thịnh tình của nhà vua, Dariun ngồi lên tảng đá lớn và bắt đầu bày tỏ nỗi bất mãn với vị eran nào đó đã tranh việc của mình.
Trong lúc Dariun cùng những người khác tổ chức bữa tiệc nhỏ thì dưới lòng đất chừng 50 gaz, Kishward và Jaravant đang bắt đầu chuyến phiêu lưu không mấy kỳ thú. Con đường được chiếu sáng bởi ba trăm ngọn đuộc, dài hơn người ta tưởng tượng nhiều, càng đi sâu càng dốc xuống.
Một vài binh sĩ trông thấy cái bóng kỳ lạ và hét lên.
“Có phải lũ ma cà rồng không?”
“Trông như một con chó bốn mắt vậy.”
Bầu không khí bỗng trở nên u ám.
Arslan gửi quà an ủi cho Dariun cùng quân lính vì chàng nghĩ sẽ không có chuyện gì nghiêm trọng, mà ngay cả Dariun và Kishward cũng thế. :úc này, Kishward bình tĩnh ra lệnh cho binh lính thật cảnh giác. Anh nhận thấy quân số của mình đã giảm đi. Tình huống này chưa từng xảy ra với Kishward, một người đàn ông không có điểm yếu.
Một trận chiến khác nổ khi một con chó bốn mắt xuất hiện. Binh lính hàng trước và hàng sau xô đẩy lẫn nhau.
“Giết chết nó!”
“Thiêu sống nó đi!”
Những tiếng la hét chửi mắng càng làm tăng thêm sự bất an. Lính ở đây đều là những chiến binh dũng cảm đã mạnh mẽ sống sót sau trận chiến với Lusitania. Dù kẻ địch có bất ngờ tấn công, họ cũng không hề nao núng.
Nhưng đối thủ lần này của họ lại chẳng phải con người. Họ nhận thấy mình đang rời xa vương quốc của loài người và tiến dần đến lãnh thổ bóng tối của Xà vương Zahhak. Người dân Pars vẫn luôn ôm nỗi ám ảnh vô hình với cái tên này, chỉ một chút kích động sẽ khiến họ hoảng loạn.
Jaravant đang hành quân phía trước, ta phải cầm rìu, tay trái cầm đuốc, vững vàng tiến lên. Dù trong lòng có bất an và sợ hãi, anh vẫn phải chỉ huy quân lính nên không thể biểu hiện ra.
“Ồ, kia là….”
Hiện ra trước ánh lửa là một gian phòng rộng lớn sáng ngang với đại sảnh cung điện, mà có lẽ cũng chỉ thấy được một phần mà thôi. Phía trên cao, bóng tối vẫn bao trùm, không thể ước lượng được đâu mới là tận cùng. Trên tường chạm trắc nhiều loài động vật đáng sợ như rắn và bò cạp, còn có những bệ thờ tạc bằng đá đen.
“Chỗ quái quỷ gì vậy….”
“Trông như một ngôi đền.”
Kishward thì thầm đáp lại Jaravant.
“Nói thế thì báng bổ thần linh quá. Thứ được thờ cúng ở đây hẳn đầy hận thù và nỗi sợ.”
Có vài bếp lò lớn nhỏ khác nhau, chân nến, vạc, chai, đĩa….không thể nào đếm hết được. Vài con dao nhọn đặt trên bệ đá dính máu, vẫn sót lại những thứ trắng ởn trông như xương. Một bộ xương trắng khác bị treo lên tường bởi những sợi xích sắt.”
“Chỗ này đã qua bao nhiêu năm rồi nhỉ?”
“100 hoặc 200 năm gì đó….Không, có lẽ còn hơn thế, tạm thời chưa thể kết luận được.”
Kishward nhìn chằm chằm bệ thờ bằng đá đen.
“Tính từ khi Xà vương Zahhak bị Vua anh hùng Kai Khosrow đánh bại thì đã hơn 300 năm rồi.”
“Trong lời gian đó, chúng vẫn ẩn nấp dưới lòng đất Ecbatana sao….?”
Jaravant nuốt nước bọt. Bóng binh lính đong đưa dưới ánh đuốc, phản chiếu lên bức tường, trông cũng như bầy quái vật. Giữa làn sóng đỏ đen này, kho ai bình tĩnh được.
“Ngài Eran gọi đây là đền thờ thì chắc chắn phải có thầy tế. Nhưng ở đây không có ai cả.”
“Có thể chúng trốn rồi.”
“Nếu trốn thì hẳn chúng đang theo dõi hành động của chúng ta. Một khi có chút sơ hở, chúng sẽ tấn công, phải không?”
Đúng lúc này, những tiếng đập cánh cùng tiếng la chói tai át đi câu nói. Hàng chục hàng trăm bóng đen lao ra từ góc tối phía trên. Những con quái vật cũng xuất hiện ở mọi nơi dưới mặt đất.
“Ồ, đúng như ta mong đợi!”
Jaravant vung cánh tay lực lưỡng, chiếc rìu khổng lồ trên tay anh ta cũng gầm lên.
Một con chó bốn bắt rơi xuống với cái đầu đứt lìa. Một con ma cà rồng khác gãy cổ, va vào tường. Máu độc phun ra từng miệng nó khi nội tạng vỡ nát. Cùng lúc đó, một con quỷ vượn bị ngọn đuốc quất trúng. Nó ngã xuống với cái đầu bốc cháy.
Trong nháy mắt, 10 con quỷ đã lăn lộn dưới chân Jaravant.
“Có khi không đến lượt ta thể hiện rồi.”
Kishward cười gượng, vung đôi song kiếm màu trắng bạc. Đầu của hai con chó bốn mắt bay lên, máu bắn theo cả chiều dọc lẫn chiều ngang trước khi cơ thể nó rơi xuống.
Những binh lính được Kishward chỉ huy vô cùng điêu luyện. Họ đứng thành từng nhóm ba người, đấu lưng vào nhau, dùng kiếm và thương giết quái vật. Ngay khi trận chiến chính thức bắt đầu, sự ưu tú của những người này liền xua tan nỗi sợ.
Một con quỷ vượn có cánh đứt lìa cánh tay, thở hồng hộc, theo dõi đám người. Cặp mắt vàng của nó lóe lên ánh tím đầy hận thù. Tuy nhiên, dường như nó không định tham gia trận chiến sinh tử này mà chỉ ẩn mình sau những cái vạc, cố gắng che giấu sự tồn tại của bản thân.
Chẳng bao lâu sau, một người hô lên.
“Ngài eran, đã giết gần hết bọn chúng rồi.”
“Ồ, ngài Jaravant, phong thái chiến đấu của ngài thật tuyệt vời, khiến ta vô cùng ngưỡng mộ.”
“Không không, những kẻ này đâu là gì so với các chiến binh tinh nhuệ Turan hay hiệp sĩ Lusitania. Không có gì đáng khen ngợi ở đây cả.”
Jaranvant cười lớn. Dù có phần gượng gạo nhưng dù sao đây cũng là lần đầu tiên anh lấy lại khí thế kể từ khi hay tin cha mình qua đời.
Kishward đáp lại anh ta bằng một nụ cười, một ta cầm đôi song kiếm, tay kia vỗ nhẹ đôi vai to lớn của người đồng nghiệp.
“Ngài còn trẻ, rất triển vọng. Sau này ta sẽ trông cậy vào ngài.”
Rồi nụ cười chợt biến mất, thay bằng tiếng quát đầy uy lực.
“Kẻ nào!”
Một người lính ném ngọn giáo về phía phát ra âm thanh. Mũi giáo đâm vào cái vạc lớn, bật ngược trở lại, rồi một sinh vật xuất hiện. Đó là con quỷ vượn có cánh nhưng chỉ còn 1 cánh tay.
Con quỷ vượn gào lên một tiếng, biết mình không thể thoát thân. Tay phải nó chống xuống mặt đất, co rúm người lại, đầu cúi gằm. Rồi nó nằm rạp ra, tay phải giơ lên như đang cầu xin. Khuôn mặt đầy nước mắt nước mũi, lộ rõ vẻ sợ hãi.
Những người lính vốn định giết nó bỗng cảm thấy khó xử, đưa mắt nhìn nhau.
“Dù sao nó cũng bị thương nặng rồi, không đáng giết. Cứ thả nó đi.”
Nghe Jaravant nói vậy, những người lính thu gươm lại.
Con quỷ vượn kêu lên lần nữa. Sau khi biết mình được tha mạng, nó liền co người lại, quay lưng chạy vào bóng tối.
------------------------
Sấm rền trên cao.
Các tướng lĩnh đều cảm nhận được. Tuy nhiên, sao có thể như thế được? Họ đang ở dưới lòng đất, và trên đầu họ hẳn là những con đường của kinh đô hoàng gia cơ mà.
Có thứ gì đó rơi xuống dưới ánh đuốc, tựa như trang sức, lấp la lấp lánh. Chúng lách tách trên vai những người lính, làm ướt quần áo họ.
“Mưa à?”
“Đừng nói nhảm. Dưới lòng đất làm sao có mưa được. Kiểm tra lại xem….”
Lời này im bặt giữa chừng trong sự ngột ngạt, và tiếng nước càng xối xả thêm.
Chỉ khi đó, những người lính mới nhận ra tình hình nghiêm trọng thế nào.
Trần cát phía trên đang sụp đổ. Có lẽ trên đó là một hồ chứa nước lớn, và phần đáy đã nứt ra.
“Chạy mau!”
Nước trút xuống như thác đổ.
Âm thanh ầm ầm cùng những tiếng la át đi mệnh lệnh. Kishward và Jaravant cũng ướt sũng. Đuốc tắt ngấm, bóng tối bao trùm.
Nước đã dâng từ mắt cá chân lên tới đầu gối, rồi mau chóng đến thắt lưng. Lượng nước và tốc độ nước dâng đáng báo động. Những thứ nồi vạc chai lọ rơi xuống, tỏa ra mùi hương lạ nhưng rồi cũng mau chóng bị nước nhấn chìm.
“Mau tìm chỗ bám vào. Đừng để nước cuốn trôi!”
Dù mệnh lệnh được hét lên với âm thanh đủ để cả vạn quân nghe thấy, nhưng vẫn bị tiếng nước át đi. Lúc này, nước trút dữ dội đã tạo thành vòng xoáy, lan ra bốn phía. Những thanh kiếm cũng bị cuốn vào, cùng lao về một hướng.
Người sống, người chết hay lũ quái vật cũng bị nâng lên, dìm xuống, dập dềnh trong cơ lũ dữ, cuối cùng bị nhấn chìm trong lòng đất tối tăm.
Kishward vứt bỏ đôi song kiếm, mau chóng cởi mũ và áo giáp. Để thực hiện xong hết những động tác này, anh đã phải lặn ngụp trong nước năm sáu lần. Cuối cùng, cơ thể anh cũng đã đủ nhẹ để nổi lên trên mặt nước.
Ngay trước khi lá phổi cạn kiệt, anh liền hít một hơi thật tham lam, bất chấp cả nước bắn vào miệng.
“Eran Kishward, ngài ở đâu?”
Jaravant hét lớn nhưng giọng cũng lạc đi trong tiếng nước gầm, không ai nghe thấy.
Bất giác, đỉnh đầu sáng hơn. May sao bây giờ là ban ngày.
Trên mặt đất, cũng chính là kinh đô hoàng gia, một cảnh tượng lạ lùng xuất hiện. Đáy bể chứa nước có đường kính khoảng 2 amagi nứt ra, âm thanh ầm ầm như sấm, nước chảy hết xuống lòng đất, biến thành vùng bùn trũng. Có ai đó bò ra khỏi vũng bùn, loạng choạng đứng dậy.
“Gurgin? Gurgin, ngươi ở đâu?”
Âm thanh khàn khàn truyền xuốngd dáy nước. Một gã mặc áo choàng đen với thân mình đầy bùn, giơ hai tay lên che khuôn mặt như thể sợ hãi ánh nắng.
“Gurgin, này, ngươi chết đuối trong đó à? Vậy thì ngươi đúng là đồ ngốc.”
Gã pháp sư trong bộ áo choàng xám dường như không thương tiếc gì cho đồng đội của mình, chỉ nhìn quanh với đôi mất hẹp.
“Thấy không? Lũ người không có đức tin. Những kẻ chống lại Xà vương Zahhak đều sẽ có kết cục như vậy đấy.”
Hắn cất tiếng cười hoang dại. Bộ áo choàng đen ướt sũng, quấn quanh người một cách tối tăm nặng nề. nhưng với Gundi, nó vẫn nhẹ nhàng như lông vũ.
Chửi rủa nắng mặt trời chói gắt, gã pháp sư rời khỏi vũng bùn, leo lên mặt đất cứng. Nhưng mới đi được vài bước, hắn sững sờ dừng lại. Một người đang đứng chắn ngay trước mặt.
“Cười xong chưa?”
Người này toàn thân mặc chiến giáp đen tuyền, chỉ có mặt trong tấm áo choàng đỏ rực như máu. Anh ta từ từ rút thanh trường kiếm. Ánh mặt trời yếu ớt phản chiếu nơi lưỡi kiếm, khiến nó rực rỡ huy hoàng.
“Đây là tiếng cười cuối cùng của ngươi, cho nên ta sẽ để ngươi cười cho đủ. Vừa lòng chưa?”
Chiến binh trong bộ giáp đen ấy chính là Dariun. Ngay khi nghe tiếng động lớn trong khe đá, anh đã trèo lên một nơi cao hơn phá trông thấy hiện tượng lạ xảy ra ở bể chứa nước gần đó. Tức thì, anh cưỡi ngựa tới, hoàn toàn quên đi men rượu, sau đó tìm thấy tên pháp sư đang định trốn thoát.
“Tâm trạng ta không tốt. Ngươi phản kháng ta cũng giết, mà chạy trốn ta cũng giết.”
“….”
“Cho nên nếu không muốn chết thì mau chóng đầu hàng. Từ trước đến giờ, ta giết không biết bao nhiêu kẻ mạnh hơn ngươi, chon nên ta cũng không nương tay với lũ thuộc hạ của Xà vương đâu.”
Dairun bước về phía trước, phong thái vừa tao nhã lại vừa nguy hiểm, xứng với biệt danh “Hổ tướng” mà người Sindhura đặt cho anh.
Gã pháp sư quay lại, nhưng cũng sững sờ tại đó. Dưới ánh nắng chói gắt, gã thấy một chiến binh với chiếc ống thổi trong tay. Tấn nhiên gã không biết đây là kẻ đã đâm mù mắt phải của người đồng nghiệp Gazdaham, nhưng hắn hoàn toàn cảm nhận được sát ý bừng bừng của đối phương.
Phát ra một tiếng kêu kỳ quái, cơ thể tên pháp sư đột ngột bay lên. Cùng lúc, ánh kiếm lóe lên, rồi dưới chân Dariun phát ra âm thanh nhão nhoẹt khó nghe.
Cơ thể của gã pháp sư rơi xuống bùn.
Chỉ có một chút máu văng lên do Dariun tấn công bằng mũi kiếm. Với một đòn nhanh như chớp từ trái sang phải, Dairun đã cắt đứt gân chân đối phương. Gã pháp sư mặt đầy bùn, đau đớn, tủi nhục, muốn bò cũng không bò nổi, chỉ có thể vùng vẫy.
“Ngài không định giết hắn sao, ngài Dariun?”
Jimsa bước tới hỏi.
“Ta nghĩ nên để hắn sống, biết đâu hắn sẽ khai ra.”
“Ta không nghĩ tên này sẽ chịu nói gì đâu.”
“Ta cũng nghĩ vậy, nhưng hắn có nói hay không cũng không quan trọng.”
Dariun tra kiếm vào vỏ. Dưới gò má anh ta vẫn còn vệt đỏ chứng tỏ đã uống khá nhiều rượu. Jimsa cũng hơi sau. Sau khi cất ống thổi đi, anh phải vỗ vào gương mặt nóng bừng của mình mấy cái cho tỉnh.
“Nếu chúng ta không thả tên này đi, kiểu gì đồng bọn của hắn cũng nhốn nháo lên đi tìm.”
“Lũ thuộc hạ của Xà vương coi trọng đồng đội đến thế ư? Ta còn vừa nghe hắn chửi rủa bạn mình.”
“Nếu vậy thì…”
Jimsa khẽ cúi đầu, nhìn tên pháp sư lăn lộn trong đau đớn mà chẳng có chút cảm thông.
“Lúc ta chiến đấu với hoàng tử Ilterish, một tên pháp sư đã chen ngang. Ta dùng mũi tiêu bắn hỏng mắt phải của gã, nhưng tên này vẫn còn hai mắt đầy đủ.”
Jimsa nở nụ cười cay đắng bên khóe miệng.
“Chúng có thể tái sinh không nhỉ? Giờ ta có thể thử đâm mù một mắt của gã để xác nhận.”
“Đừng thô lỗ quá. Hắn còn có ích đấy.”
“Có ích gì?”
“Lũ tay chân của Xà vương Zahhak đã bị bắt về thẩm vấn. Chỉ cần cho cả thế giới biết tin này là được.”
“Ồ….”
“Nếu làm vậy, lũ đồng bọn sẽ tìm đến giết hắn bịt miệng. Chúng ta có thể giăng lưới bắt cả đám, thế nào?”
“Ta hiểu rồi. Ngài dùng hắn làm mồi nhử.”
Jimsa gật đầu ngưỡng mộ. Dariun liền nói tiếp.
“Hoặc kể cả chúng ta không làm gì, đồng bọn của hắn cũng sẽ trùng phạt kẻ phản bội thôi. Kết quả vẫn vậy.” Dariun nheo mắt. “Những vấn đề còn lại, cứ để người bạn thông minh của ta suy nghĩ đi.”
Hiệp sĩ áo đen vẫy tay, gọi quân lính của mình.
Tên pháp sư Gundi sẽ không được đối xử như một vị khách. Sau khi bôi thuốc và băng bó vết thương ở chân, quân lính trói gã bằng dây da, đồng thời bịt miệng để ngăn gã cắn lưỡi tự sát. Mắt hắn cũng bị che lại, tay buộc ra sau lưng, từng ngón tay đều bị quấn chặt. Khi gã bị đưa đi rồi, cuối cùng Dariun nghe thấy âm thanh của những người vừa bò ra được khỏi bùn.
“Ngài eran, ngài an toàn là mừng rồi.” Dariun muốn cười nhạo Kishward nhưng đành kiềm chế. Kishward đã mất đôi song kiếm, ngôi đền dưới lòng đất bị nhấn chìm. Bằng chứng về âm mưu và tội ác đều bị chôn vùi trong nước.
Dù đã tiêu diệt được khoảng 300 con quỷ vượn có cánh, chó bốn mắt và ma cà rồng, nhưng không thể xem là chiến tích đáng tư hạo không lực lượng phe ta đã không thể bảo toàn.
Có 18 người chết đuối, 16 người mất tích, tổng cộng 34 nạn nhân. Kishward vô cùng tự trách về sự cố ngoài ý muốn này.
Sau khi Jaranvant bò ra khỏi bùn, anh cùng Kishward vội vàng quay về tắm rửa, thay quần áo. Ba vị tướng quân vào cung báo cáo vụ việc xảy ra. Lúc này, Narsus cũng ở bên cạnh Arslan.
“…..Bể nước bị hư hỏng hoàn toàn, tình hình rất khó khăn.”
“Xin đừng lo, bể vẫn còn khả năng chứa nên chỉ cần chuyển thêm nước để bù vào.”
Nghe Kishward nói, Jaravant liền trấn an.
“Nhưng cần mau chóng xây dựng đường nước. Dùng gạch thì phải mất 1 năm mới hoàn thành. Xin giao nhiệm vụ thi công sửa chữa cho thần. Jaravant này nhất định sẽ khôi phục trạng thái ban đầu trong vòng 1 năm.”
Arslan gật đầu. Sau khi chỉ thị an táng những người đã hy sinh, tìm kiếm người mất tích, chàng bảo hai vị tướng quay về.
“Có vẻ như ngài Jaravant đã lấy lại tinh thần.”
“Đây là chuyện tốt. Một người dũng mãnh như ngài ấy mà chán nản quá lâu, những người xung quanh cũng ủ rũ theo.”
Chỉ có Narsus mới có thể nói ra những câu như thế. Dariun khẽ lắc đầu.
“Cuối cùng cũng tìm được sào huyệt của bọn quỷ, vậy mà lại mắc vào bẫy của chúng.”
“Chúng ta cần tăng cường cảnh giác hơn nữa ở những bể chứa nước hay đường dẫn nước thế này. Nếu chúng đầu độc nguồn nước thì nguy to đấy.”
“Vậy phải làm gì với tên pháp sư kia?”
“Ngày mai ta sẽ suy nghĩ.”
Dariun và Jimsa rút lui để đi hỗ trợ Kishward. Đúng lúc này, một sứ giả tìm đến, giao cho Narsus lá thư.
-----------------------
“Tin tốt!”
Narsus đọc qua một lượt rồi gật đầu, sau đó rút một chiếc hộp quý đựng bút lông trong ống tay. Trong phủ phó tể tướng có đến mấy vạn cuốn sách, còn cố vô số bút lông quý giá được mang từ Serica về. Tuy nhiên, lúc này Narsus không dùng nó để vẽ tranh mà để viết.
“Chuyện gì vậy, ngài Narsus?”
“Elam đất hả? Có tin từu biên giới phía đông bắc. Từ tháng 7, hình như có một nhóm chiến binh Turk lang thang khắp nơi, nhưng chúng không làm gì, chỉ thăm dò tình hình.”
Elam chớp mắt, “Vậy là tin tốt ư?”
“Nói đúng hơn thì là tin tốt trong tương lai. Vẫn hơi sớm để báo với bệ hạ nên ngươi đừng đề cập tới.”
Sau khi viết ba lá thư, Narsus và Elam cùng đến cung điện gặp nhà vua. Elam đến vì có việc phải làm, còn Narsus thì tới cùng uống trà.
“May là đã ngăn được Dariun.”
Arslan vừa nói vừa thêm mật ong vào trà đen, nhưng chàng bất chợt dừng khuấy chiếc thìa trong tay lại, nhìn Elam.
“Có chuyên gì vậy Elam?”
“À vâng, thần chợt nhớ ra một chuyện, có thể báo cáo với bệ hạ được không?”
“Đương nhiên rồi, Elam, cậu có thể nói với ta bất cứ chuyện gì. Nếu cậu đắn đo như vậy thì hẳn là vấn đề đáng ngại.”
Elam cúi đầu chào nhà vua, nói.
“Là về gươm báu Rukhnabad.”
Đó là một đề tài bất ngờ nên không chỉ Arslan mà cả Narsus cũng ngẩng lên
“Chuyện xảy ra trước khi Arslan bệ hạ lên ngôi, một con rắn kỳ lạ xuất hiện trong cung điện, chắc người còn nhớ. Danh tính thực sự của con rắn đó là một gã pháp sư. Hắn biến thành rắn và định giết bệ hạ, cướp lấy thanh gươm.”
“Ồ, ta vẫn nhớ. Sam tình cờ có mặt ở đó và đã liều mình bảo vệ kiếm.”
Giọng Arslan mang đầy tiếc thương.
Trước kia, Pars từng tự hào về 12 vị marzban, ai nấy đều là những chiến binh dũng mãnh vô song. Sam là một trong số họ, nổi tiếng với lòng trung nghĩa và sự cẩn trọng.
Khi tên pháp sư biến thành rắn, đột nhập vào cung điện để đánh cắp gươm báu Rukhnabad, Sam dùng thân mình bảo vệ kiếm. Cuối cùng, ông bị con rắn hút hết sinh mệnh, hy sinh anh dũng.
“Bây giờ lỡ có ai đó xuất hiện và nhắm đến gươm báu thù sao? Chúng ta có nên tăng cường an ninh không?”
“Chúng ta đang cần tăng cường canh gác ở nhiều nơi, không đủ binh sĩ đâu.”
Arslan cười cay đắng.
“Ta sẽ bảo vệ Rukhnabad. Chỉ ta là đủ rồi.”
Arslan nhấp chút trà đen, thong thả tận hưởng mùi hương thanh nhã.
“Người ta nói các vị tiên vương của Pars chỉ là công cụ của gươm báu Rukhnabad mà Vua anh hùng Kai Khosrow truyền lại….”
Chàng ngẫm nghĩ một hồi, dường như đang tìm lời thích hợp.
“Ta lại tự coi mình là chỗ dựa cho người dân Pars. Người dân và ta kết nối với nhau bởi Rukhnabad. Vì thế, Rukhnabad là kho báu thiêng liêng của Pars.”
Narsus chăm chú nhìn vị vua trẻ, chợt hỏi.
“Bệ hạ, người học được điều đó từ đâu?”
Arslan mơ hồ đáp.
“Ta là học trò của ngài mà, Narsus. Hẳn là ngài đã dạy cho ta chứ.”
“Không, thần không dạy người. Thần không tin chuyện tâm linh.”
“…..Cũng phải.”
“Bệ hạ đã tự mình chiêm nghiêm được. Những kinh nghiệm trong quá khứ của người đã giúp người hình thành nên tư tưởng riêng.”
“Narsus….”
“Bệ hạ, người đã trở thành một vị vua thực sự rồi.”
Narsus đứng dậy, đi đến chỗ Arslan, quỳ một gối xuống như thể hoàn toàn bị khuất phục trước uy quyền của chàng. Anh đặt trán mình lên mui bàn tay của Arslan.
“Vua của ta, vua vĩnh cửu!”
“….”
“Ta vô cùng vinh dự khi được phụng sự người. Dù Narsus ta không có tài năng đức hạnh gì đáng nói, nhưng ta một lần nữa thề nguyện trung thành với người.”
Elam lặng lẽ quan sát, không giấu nổi sự phấn khích.
“Ta mới phải lấy làm vinh dự.”
Dù Arslan rất ngạc nhiên trước hành động bất ngờ của Narsus nhưng chàng không bối rối. Chàng đưa tay trái, đỡ trán của Narsus, để nó rời mu bàn tay mình.
“Chính vì ta nhận được sự phò trợ của chiến lược gia thông thái nhất trên Đại lục vương lộ. Chính nhờ ngài, Dariun và Elam đã gắng sức vì ta. Dù thế nào đi nữa, ta nhất định sẽ tiếp tục tiến bước. Ngoài cách đó ra, ta không biết phải làm sao mới trả được ơn nghĩa của các vị.”
Ngay khi Narsus định đáp lại thì giọng một thị vệ vang lên, báo rằng có một người đàn ông đến tìm gặp nhà vua theo lời triệu tập.
“Ta muốn tặng Kishward đôi song kiếm mới nên gọi thợ rèn đến đây, không thể để anh ta chờ được. Narsus, ngài hãy nghỉ ngơi một lát. Elam, giúp ta những chuyện còn lại nhé.”
Sau khi Arslan được người thị vệ tên Nadam dẫn ra ngoài. Narsus im lặng hồi lâu. Nhưng khi Elam chuẩn bị lên tiếng gợi chuyện trước thì Narsus chợt thì thầm.
“Elam, ta bỗng rùng mình vì một linh cảm đáng sợ.”
“Ngài Narsus, chuyện gì vậy?”
“Ngay cả Arslan bệ hạ….”
Narsus nuốt xuống những lời này. Vị chiến lược gia khôn ngoan và điềm tĩnh bậc nhất, khiến cả kẻ ngạo mạn như Gieve cũng tâm phục khẩu phục, vậy mà giờ đây không kìm nến đước sự run rẩy trong giọng nói và đôi tay mình. Anh có một linh cảm, rằng một cảnh tượng rất đáng ngại sẽ xảy đến. Khi vừa nói ra, Narsus thật sự tin rằng đièu đó sẽ thành hiện thực.
Anh nhấm mắt lại một lúc, rồi mở ra. Anh nắm chặt hai vai người học trò yêu quý, giọng nói khàn đi.
“Elam, ngươi theo ta đã gần 13 năm rồi.”
“Vâng.”
“Vậy hãy hứa với ta một chuyện.”
“Ngài Narsus, ngài nói gì vậy?”
“Ngươi sẽ sống lâu hơn ta và Dariun ít nhất là 13 năm để bảo vệ Arslan bệ hạ.”
Elam há hốc miệng, chăm chú nhìn chủ nhân.
“Hứa với ta đi.”
“Tôi sẽ cố hết sức.”
“Không, ngươi thề đi.”
“….”
“Hãy thề mau lên.”
Elam hạ quyết tâm, tập trung vào những lời mình nói.
“Vâng, tôi thề!”
Lúc này, Narsus mới thở phào.
“Thật sao? Tốt lắm, Elam. Ta sẽ giao mọi chuyện cho ngươi.”
Nhiều năm sau, Elam vẫn không quên được vẻ mặt và giọng nói của thầy mình khi ấy.
Danh sách chương