Trong toa ăn tràn đầy những khuôn mặt niềm nở và hòa nhã.

Czes chạy khắp các dãy bàn, đuổi theo một cô bé dường như bằng tuổi với vẻ ngoài của cậu ta.

Cậu và cô bé đều ở chung một buồng của toa hạng nhất, và cô bé đã ngây ngô đề nghị là “Mình cùng khám phá con tàu này đi!” Czes hoàn toàn không chút hứng thú, nhưng nếu cậu dự định giả vai “cậu bé được cả thế giới yêu quý,” theo sát cô chắc hẳn sẽ là một nước đi thích hợp.

Cậu đã nghĩ về những thứ như thế suốt hơn hai thế kỉ qua, và trong những trường hợp như này, cậu hoàn toàn có thể giả vờ như một đứa trẻ theo cách hết sức tự nhiên.

Theo sau một cô bé mà thậm chí còn chẳng biết tên, cậu chạy tới đoạn giữa của toa tàu.

Nghĩ lại thì, hình như ta cũng từng làm thế này trên đường vượt biển từ châu Âu tới đây. Ta là đứa trẻ duy nhất trên đó. Lúc ta nói, “Cùng khám phá con tàu này đi,” không biết ai đã đi cùng vứi ta nhỉ? Ta không tài nào nhớ được ra... Thôi, cũng chẳng quan trọng gì. Một ngày nào đó, khi ta đã “ăn” hết chúng, câu trả lời chắc chắn sẽ hiện ra.

Czes mải mê nghĩ về quá nhiều thứ vô nghĩa. Tâm trí cậu dần lan man, và vai cậu đập vào lưng một cậu trai đang ngồi bên quầy phục vụ.

“Mghk-ghk-gak!”

Cậu thanh niên dường như đang nhai nuốt gì đó; thức ăn mắc kẹt lại trong họng anh ta, và anh ta hoảng hốt giãy giụa.

Khi nhìn lại, cậu thấy đó chính là gã xăm mặt mà cậu va phải trước giờ lên tàu. Đụng trúng ngay cùng một người như thế: Thật đúng là xui xẻo. Czes không thật sự cảm thấy tội lỗi, nhưng cậu vẫn xin lỗi ngay tức thì.

“Aah! Lại là anh ạ...! Em thật lòng xin lỗi!”

Anh ta nước mắt giàn giụa, nhưng kể cả thế, anh ta vẫn gượng cười nhìn Czes.

“À, không, không sao, anh ổn, anh ổn mà. Còn hai em thì sao. Hai em ổn chứ?”

Czes gật đầu, mỉm cười y hệt như lần trước. So với loại người mang trên mặt một hình xăm, tay thanh niên này quả thực quá dễ lừa. Loại người như này, chỉ biết nói mà không biết nghĩ suy, trong tương lai chắc sẽ chẳng giành lấy được gì trên đời. Thâm tâm cậu nghĩ như thế, nhưng cậu không để chúng hiện ra trên khuôn mặt.

Sau đó, mẹ của cô bé cũng đến đây, và bọn họ bắt đầu trò chuyện vui vẻ.

Rồi một cô gái đeo kính đè lên bịt mắt nhìn sang Czes và hỏi.

“Cậu bé này đi một mình ạ?”

“Vâng, cháu nó—ôi, trời ơi. Tôi vẫn chưa hỏi tên thằng bé.”

Phải rồi, bà ta nói đúng.

Czes quyết định giới thiệu với mọi người về bản thân bằng một cái tên giả. Cậu đã buộc phải dùng tên thật khi soát vé, nhưng lúc nói chuyện với người bình thường, cậu có thể dùng tên giả mà không hề gặp rắc rối. Tốt nhất vẫn nên tránh cho người ngoài biết tên thật nhiều nhất có thể.

Đưa ra quyết định ấy xong, Czes lựa chọn tên giả là “Thomas.” Đấy là tên của Thomas Edison, “Ông hoàng nhà phát minh,” người đã chết vào năm đó. Cậu đã nghĩ mình khó lòng có thể quên đi cái tên này cho tới khi cập bến New York.

Tuy nhiên.

“Tên em là Czeslaw Mayer—”

Phát âm xong cái tên khó đọc ấy, Czes khựng lại một hồi. Trong khoảng dừng ngắn ngủi ấy, tâm trí cậu di chuyển với tốc độ chóng mặt.

Thế này là sao?! Ta chắc chắn là mới nãy đã cử động miệng để nói “Thomas” cơ mà! Cứ như cơ thể ta từ chối...

Cậu chợt nhớ về một tình huống tương tự. Đó là cái hồi mà hắn vẫn còn sống. Trong một khu chợ ngoài phố, ai đấy đã hỏi tên cậu ta, và khi cậu cố dùng tên giả để ứng phó với tình hình, cái miệng cậu đã vô thức phun tên thật ra. Ở thời điểm đó, hắn đang đứng cách cậu một quãng, và cậu biết đấy là nguyên do, nhưng...

Giới hạn mà con quỷ trao cho họ. Một cái giá quá đỗi nhẹ nhàng cho sự bất tử...

Người bất tử không thể dùng tên giả với người bất tử khác.

Hiện tại, giới hạn ấy đã thông báo cho cậu ta một tin vô cùng quan trọng:

Có một kẻ bất tử ở rất gần với ta—

Czes không nói lên lời, nhưng hoảng hốt ở đây chẳng ích lợi gì cho cậu hết. Nếu kẻ bất tử vẫn chưa chú ý đến cậu ta, thì không có lí do gì cậu phải làm ầm lên và thu hút sự chú ý của y cả.

Cậu lấy lại bình tĩnh và tiếp lời, cố đưa ra một câu hợp lí. Ngoại trừ dùng tên giả ra, cậu có thể nói dối bất cứ cái gì cậu muốn, nên cậu dựng lên một cái cớ phù hợp cho chuyến đi của mình.

“--Cứ gọi em là Czes. Em đang trên đường đến New York để gặp gia đình mình.”

Tiếp đó, người đàn bà và cô bé cũng giới thiệu tên tuổi theo.

Tuy nhiên, Czes chỉ nhớ tên mấy người đó; cậu còn phải tập trung vào những người đang ngồi trong toa ăn.

Nếu tính trong tầm có thể nghe thấy, kẻ đó chắc hẳn đang ở trong toa ăn này. Tuy nhiên, cậu không nhận ra bất cứ khuôn mặt nào hết. Cậu không thấy ai có vẻ như đang giả trang, và tay súng với cô gái đeo bịt mắt ngồi trước gã nom giống đang “hóa trang” hơn là “giả trang.”

Rốt cuộc là đứa nào? Ta không nhìn được vào trong bếp; chẳng lẽ kẻ đó đang ở đấy? Hay là--

Nếu có thể, cậu muốn phủ nhận cái suy nghĩ vừa ập đến với cậu ta.

Chẳng nhẽ đã có thêm người bất tử, những người không ở trên con tàu đó...? Trong mắt cậu ta, đây quả thực là một ý tưởng kinh hoàng. Nếu có một kẻ bất tử nằm ngoài những người từng ở trên con tàu đó, như vậy sẽ có nghĩa là cậu không thể biết còn bao nhiêu kẻ bất tử ngoài kia, hay bộ dạng chúng trông thế nào.

Một ngày nào đó, một kẻ cậu không hề biết sẽ bước đến cậu ta, mỉm cười, rồi đột nhiên đặt tay phải lên đầu cậu.

Chỉ cần có thế thôi, và cuộc đời Czes sẽ bị nuốt chửng và chấm dứt.

Đấy là điều mà Czes không bao giờ cho phép. Cái cậu để tâm không phải cái chết của chính mình. Vốn dĩ cậu đã nghĩ là mình đã sống đủ lâu. Vấn đề là một bên thứ ba nào đó sẽ biết về những chuyện giữa hắn với bản thân cậu ta. Đó sẽ là sự sỉ nhục khôn cùng nhất có thể có. Bản thân nó chính là nỗi kinh hoàng.

Đấy là lí do Czes lựa chọn cách sống như bây giờ. Cho dù có phải nhìn cả thế giới như con mồi, có phải nuốt chửng hết mọi thứ...cậu cũng sẽ trở thành người bất tử cuối cùng trên đời

Nếu kẻ kia là một người bất tử cậu không biết, thì cậu phải khám phá xem kẻ đó đã trở nên bất tử bằng cách nào, và ngoài kia còn bao nhiêu kẻ như thế nữa. Cách tìm hiểu dễ nhất là tìm kẻ đó rồi “ăn.”

Để làm điều đó, cậu nhất thiết phải nhận diện được kẻ bất tử kia. Cậu nên lén lút đả thương chúng, từng người một, hay trực tiếp lại gần và đặt tay lên đầu chúng? Nhưng như vậy cũng sẽ khiến những tên khác dễ dàng nhận ra cậu hơn.

Ta tuyệt đối phải loại bỏ kẻ bất tử ở đây. Dù có phải trả giá thế nào.

Kể cả khi đang ngấm ngầm những suy nghĩ đen tối ấy, Czes vẫn luôn đảm bảo rằng vai diễn “đứa trẻ ngây thơ” còn biểu lộ trên mặt.

Đúng lúc đó, anh chàng hóa trang thành tay súng quay sang cậu và gào ầm lên.

“Đúng vậy đó. Nếu em dám làm điều xấu, Rail Tracer sẽ ăn thịt em cho mà xem!”

“Ngoàm! Như vậy đó!”

Một bộ đồ tay súng hóa trang, và một chiếc đầm đỏ rực. Một cặp hành khách, nam lẫn nữ, trong trang phục kí quái. Cậu nhớ tên họ là Isaac với Miria, hay gì đó giống thế.

Giọng Isaac lôi Czes trở về với hiện thực, và để bình ổn tâm trí, hiện giờ, cậu quyết định sẽ lắng nghe câu chuyện của anh ta.

“--Cơ mà, đó cũng là cách ông già nhà anh từng dọa anh đấy.”

“Anh sợ lắm, đúng không nào!”

“Hả? R-Rail Tracer? Đ-đấy là gì thế?” anh chàng xăm mặt rụt rè hỏi.

Khi cậu nhìn sang, đôi chân anh ta đã bắt đầu run lên khe khẽ.

“Cái gì, cậu không biết về nó luôn ư, Jacuzzi? Cậu biết đấy, Rail Tracer...”

“...Và, nếu cậu kể câu chuyện này trên một con tàu...nó sẽ đuổi theo con tàu đó. ------Rail Tracer!”

“Eeeeeeeeeeeeeek!”

“Rail Tracer,” hửm? Một câu chuyện quái đản. Mặc dù ta cho rằng cơ thể ta với con quỷ đó cũng không khác gì. Nếu nhìn theo hướng đó, có thể con quái vật thật sự tồn tại cũng nên.

Dù đang mải để mắt đến xung quanh, Czes vẫn nghe rõ câu chuyện của Isaac.

Nếu ta làm việc xấu, thì ta sẽ bị ăn à? Nếu thứ đó thật sự tồn tại, thì chắc ta sẽ là kẻ bị ăn đầu tiên. Theo tiêu chuẩn của thế giới, ta chắc chắn nằm trong hạng mục “người xấu” rồi. Thực tế mà nói, ngay cả bây giờ, ta cũng đang sắp sửa bán một lượng lớn thuốc nổ cho đám mafia.

Nếu chúng được dùng trong một cuộc tranh chấp, nhất định thường dân xung quanh sẽ phải chịu thiệt hại.

“Thiệt hại” mới chỉ là cách nói trừu tượng để diễn tả ảnh hưởng của nó: Nếu chỗ thuốc nổ trên được sử dụng giữa đường giữa phố, chắc chắn sẽ người tử vong, rất nhiều là đằng khác. Czes hiểu rõ điều đó, và cậu vẫn tiếp tục tiến hành giao dịch.

Không chỉ có thế. Ngay cả trước đây, Czes cũng lợi dụng vẻ ngoài của mình để lừa gạt và gài bẫy không biết bao nhiêu người. Đôi lúc cậu làm vậy để cuộc đời dễ thở hơn. Đôi lúc cậu chỉ đơn thuần là buông thả trong mối căm thù dành cho con người.

...Thì sao? Ta không thấy đó là vấn đề.

Đối với Czes, cách để ăn những người bất tử ngoài kia quan trọng hơn gấp bội so với sinh mạng của những kẻ xa lạ, hay chuyện cậu ta là người tốt hay kẻ xấu.

Nếu là để phục vụ cho khao khát ấy, cậu nghĩ mình sẽ chẳng quan tâm nếu tất cả mọi người trên đời đều chết sạch.

Vĩnh viễn bất tử vẫn còn tốt hơn nhiều so với việc để những kí ức khốn nạn đấy rơi vào tay kẻ khác.

Khi nghĩ như thế, một nụ cười cay đắng thấp thoáng hiện trên môi cậu ta.

-----

Rachel, người hiện đang trốn vé, lẩn trốn trên tàu theo cách táo bạo đến đáng kinh ngạc.

Cô ngồi bên một bàn ở toa ăn và, không hề ngại ngần, gọi món.

Cô không phải là không có tiền, và cũng không thù ghét gì với những đầu bếp trên tàu đây. Do đó, cô không thấy trả tiền cho đồ ăn là một vấn đề. Với lại, toa nhà ăn trên tàu còn được quản lí độc lập với đường ray, khiến cho mọi chuyện càng đỡ rắc rối.

Tuy nhiên, cô cũng không hoàn toàn bất cẩn mà tiến vào toa ăn. Cô chỉ ngồi xuống ghế sau khi nhân viên hoàn thành chuyến tuần tra đầu tiên, vậy nên cô sẽ không cần phải lo chuyện bị soát vé trong khoảng thời gian tới.

Không những thế, toa nhà ăn còn được dùng chung bởi mọi hành khách, từ hạng nhất cho đến hạng ba. Khách hàng mặc vô vàn kiểu trang phục, và ngay cả bộ đồ của cô, thứ trông chẳng khác quần áo lao động mấy, cũng không lạc lõng đến quá trắng trợn.

Trên tất cả, mỗi khi chọn ghế, cô đều nghiêm khắc tuân theo luật ngồi bên cửa sổ. Mặc dù gọi là “luật,” nhưng nó chỉ như một quy tắc cô đặt cho bản thân, nên có vi phạm thì cũng không chịu phạt gì. Tuy nhiên, nếu cô bị phát giác, chắc chắn cô sẽ không được tha chỉ sau một bài giáo huấn đơn thuần.

Cơ mà, trên tàu lại có một gã kinh tởm đến mức này...

Cô nhìn sang một gã đàn ông với hàng ria mép bé tí, người đang ngấu nghiến những món ăn chất lượng nhất trong thực đơn. Lão là một kẻ xấu xí, không “đẫy đà” mà chỉ đơn giản là thừa cân. Lão luôn mồm khoác lác về bản thân suốt nãy giờ, và tiếng cười thô tục của lão làm nước bọt tung tóe khắp nơi.

“Wah-ha-ha! Nhờ túi tiền không đáy của mình mà ta mới có thể đi tàu hạng sang của công ty khác đấy!”

Tuy nhiên, đấy lại không phải thứ làm cô cáu. Cô nhận ra được lão ta.

Không đời nào cô quên được lão. Lão là ủy viên của công ty mà cha cô từng làm việc. Lão cũng chính là kẻ đã buộc tội cha cô, trong khi bản thân chìm đắm giữa nhung gấm. Từ cách hành xử của lão, chắc hẳn lão vẫn chưa rời khỏi cái ghế ủy viên. Hình bóng lão phủ khắp trái tim Rachel một màu đen đầy tù đọng.

Cô đã tính đến chuyện đấm lão, nhưng cô biết như vậy chẳng ích gì. Dù sao đi nữa, cô cũng không thể mạo hiểm mà gây náo loạn trên đây, do bản thân là một kẻ trốn vé.

Trong lúc cô siết chặt nắm tay, giọng nói lỗ mãng kia vẫn tiếp tục vang lên đầy tàn nhẫn.

“Chậc, sống một đời sung sướng quả đúng là phần thưởng vì không phụ lòng tin của công ty với nhân viên mà! Bwa-ha-ha-ha-ha-ha!”

“Bwa-ha-ha” cái mả nhà mày. Làm như tao quan tâm ấy. Nguyền rủa cho mày thối rữa dưới đáy biển rồi bị giáp xác gặm đến tận xương đi. Tao thậm chí còn chẳng muốn mày về bờ dưới dạng bọt biển. Biến mất không một dấu vết luôn giùm tao.

Ngậm đắng nuốt cay, Rachel thầm chửi con lợn râu kẽm đó, rồi thề sẽ không bao giờ nhìn sang phía lão ta.

Trong lúc cô dùng bữa ăn vừa được đưa từ quầy phục vụ tới (với tâm trạng chán nản đầy vô vọng), một câu thanh niên chạy qua cô. Cậu ta đang khóc.

Cậu ta mang trên mặt một hình xăm thanh kiếm, và nếu nhìn thoáng qua, cậu ta trông hơi giống một tên cướp biển lảng vảng quanh vùng Caribbean. Tuy nhiên, khuôn mặt cậu lại nhăn nhúm đến đáng thương, và những dòng thác đúng nghĩa đang chảy ròng ròng từ mắt cậu.

Vào khoảnh khắc cậu ta lướt qua cô, cô nghe thấy cậu ta khẽ thì thầm.

“Gặp nhân viên, mình phải gặp nhân viên, nhanh...”

Cậu ta không định mang nhân viên quay lại đây, đúng không nhỉ?

Rachel thấy hơi bất an, song cô quyết định vẫn dùng bữa và để mắt đến tình hình.

Không lâu sau, cánh cửa mà cậu trai xăm mặt kia bước qua lại bật mở, và một gã mặc vét trắng lộ diện. Mọi thứ trên người gã đều màu trắng, từ cà vạt cho đến đôi giày, và gã trông như một tên nhà quê chuẩn bị đi dự tiệc cưới.

Đối lập với cậu trai xăm mặt kia, gã này sải bước rất hoành tráng giữa các dãy bàn.

Trong đúng một thoáng, đôi mắt Rachel chạm phải gã.

Cô lập tức ngoảnh mặt đi, song lại thấy bất an đến kì quái. Cô không tài nào rũ bỏ được cảm giác rằng gã toát lên một dấu hiệu nguy hiểm, một loại nguy hiểm khác với cặp đôi giao hưởng mà cô gặp trước giờ xuất phát.

Dồn hết sự cảnh giác vào gã đàn ông, cô tiếp tục theo sát tình hình.

Cô có một linh cảm xấu về vụ này. Một linh cảm vô cùng xấu. Đó không phải bản năng của một kẻ trốn vé thành quen. Kinh nghiệm làm chạy vặt cho đại lí thông tin, cùng những thương vụ với hàng loạt kiểu người trong thế giới ngầm—chúng đang cố mách bảo cô điều gì đó.

Nhằm chuẩn bị cho viễn cảnh thật sự cần, Rachel lặng lẽ chuẩn bị mở cửa sổ.

Viễn cảnh ấy đến gần như ngay lập tức.

Trong toa nhà ăn, ba tiếng thét rộn lên.

Mỗi tiếng thét đều rất rõ ràng, và chúng vươn đến tất cả mọi người trong toa ăn.

Ba tiếng thét vang lên, gần như cùng một lúc.

Từng tiếng thét đều vô cùng dõng dạc, và nội dung của chúng vươn tới mọi hành khách trong ga.

Từ lối vào phía trái, những gã mặc tuxedo đen thét lên.

“Tất cả mau nằm xuống đất!”

Trên tay chúng, những khẩu tiểu liên được giương ra.

Từ trung tâm căn buồng, gã bận đồ trắng cũng thét lớn.

“Tất cả bọn bây mau giơ tay lên trời!”

Một khẩu lục mạ đồng nằm trên tay phải y.

Từ phía cửa sau, một thanh niên ăn bận tồi tàn hô to.

“Ê, ê, ê! Đừng có động đậy đấy!”

Cậu ta vung vẩy con dao gọt trái cây.

Trán lấm tấm mồ hôi, người đàn ông ngồi cạnh Rachel lẩm bẩm.

“R...Rốt cuộc các người muốn bọn tôi làm gì...?”

Mấy tên kia dáo dác nhìn mặt nhau. Tất cả bọn chúng đều như đang muốn nói, Cái quái gì thế này?

Người đầu tiên di chuyển là gã thanh niên rách rưới cầm dao.

“Ừm...”

Hạ giọng thì thầm, cậu ta lùi lại vài bước.

“Xin lỗi vì đã làm phiền.”

Cậu ta lặng lẽ đóng cửa, rồi vùng chạy trối chết.

Một con dao đơn độc là không đủ để cân bằng tình thế, nhưng xét về kết quả, thì thế bế tắc giữa ba phe cũng đã tan vỡ.

...Và đó chính là dấu hiệu cho bi kịch.

Gã đàn ông vét trắng lập tức giương súng lên và bắn ba phát liên tiếp. Hành khách nhất loạt hét toáng lên, khom mình xuống và lấy hai tay che đầu.

Trong số ba viên mà tên áo trắng bắn, một viên đã trúng trực tiếp vào một tên áo đen trước mặt y. Hứng phải đạn ở đằng vai, tên đó xoay mình và ngã xuống sàn.

Như để đáp trả, một cơn mưa chì phóng ra từ nòng súng đám áo đen.

Chúng được ngắm rất chuẩn, và chỉ trong nháy mắt, bờ ngực tên áo trắng đã thấm đẫm máu tươi.

Nhân lúc hành khách la hét, Rachel chậm rãi đứng dậy, mở rộng cánh cửa sổ ra.

Trong lúc tên áo trắng ngã về sau, y bắn thêm vài phát lên trần nhà. Mục tiêu của y không phải thế; chấn động chỉ đang làm cánh tay và ngón tay y cử động mà thôi.

Ngay lập tức, tiếng súng máy lại rống lên.

Lần này, chấn động dữ dội chạy qua bụng tên áo trắng, và cơ thể hắn gập lại thành hình chữ V.

Rồi sự sống phai mờ khỏi đôi mắt y, và y nặng nề sụp xuống sàn.

Vào thời điểm ấy, Rachel đã chuồn được ra bên ngoài. Khéo léo bám lấy dãy trang trí bên sườn toa xe, cô lần tìm đường xuống, điêu luyện trượt qua một kẽ hở giữa hai bánh xe.

Hành khách với đám áo đen hoàn toàn tập trung vào cuộc đấu súng. Người duy nhất chứng kiến màn đào thoát của Rachel là vị khách ngồi cạnh cô.

-----

Sau đó, một gã bạn tăng xông đến cùng cực của tên áo trắng bước vào và đảo ngược tình hình chỉ trong nháy mắt.

Trong lúc hành khách còn đang hoang mang, không tài nào nắm được tình hình, duy nhất một người vẫn nắm được nó, theo cách rất bình tâm.

Tên này...có vẻ hữu dụng đấy.

Czé nằm cúi mặt trước quầy, mải mê nghĩ ngợi xem nên lợi dụng tên mặc vét trắng kia ra sao.

“Được rồi, Czes. Nhớ để ý đến Mary nhé.”

“Vâng ạ!”

Đáp lại lời của bà Beriam, Czes gật đầu quả quyết, rồi nắm lấy tay cô bé và rời khỏi toa tàu. Cậu mở cánh cửa và bắt đầu cất bước, vừa đi vừa cẩn thận nhìn ngó xung quanh. Cậu không thấy tên áo trắng nào trên hành lang nữa, ít nhất là tại thời điểm này.

Dẫn theo Mary bên hông, cậu hướng đến hành lang vắng lặng ở phía đuôi tàu. Trong mắt cậu ta, đây quả thực là một tình thế vô cùng tiện lợi.

Sau vụ tấn công, bà Beriam đã bảo cậu rằng, “Czes, cô muốn nhờ cháu trốn đi đâu đó với Mary.” Về mặt cá nhân, cậu muốn rời khỏi toa tàu và đi tìm lũ áo trắng, nhưng dưới hoàn cảnh này, nếu cậu bảo là sẽ ra ngoài một mình, mọi người chắc chắn sẽ ngăn cản cậu ta.

Giữa tình thế khó khăn ấy, bà Beriam, vốn đang lo cho cô con gái, đã cho cậu một lí do tuyệt vời để ra ngoài. Cậu không thể nào bỏ phí được nó.

Chỉ là, dĩ nhiên, từ thời điểm này, Mary sẽ làm vướng chân cậu ta. Cậu có thể mang cô đến chỗ đám áo trắng và giao cho chúng. Cậu cũng có thể giết cô tại đây.

Tuy nhiên, Czes không thực sự muốn thế. Không phải là bởi cậu thương tiếc với cô. Cô bé dường như bằng tuổi với vẻ ngoài cậu. Lừa gạt cô, phản bội cô... Chẳng phải đấy chính là những gì tên đàn ông kia đã làm với cậu?

Cậu không cảm thấy tội lỗi vì chuyện giết trẻ con. Nếu cần thiết, Czes sẽ không ngần ngại dùng những lá gan được lấy từ trẻ con còn sống cho thí nghiệm của mình, nhưng phản bội lại là chuyện hoàn toàn khác. Ý tưởng làm một chuyện đồng điệu với người đàn ông cậu căm ghét nhất thổi bùng lên nỗi ghét bỏ chính mình trong lòng cậu ta.

Cậu không quan tâm đến chuyện lừa gạt người lớn. Tuy nhiên, cậu cũng không coi trẻ con là quý giá hay gì. Suốt hai trăm năm qua, cậu đã chứng kiến sự xấu xa và tàn độc trong chúng đến hơn cả cần thiết. Kể cả thế, cậu vẫn không dám gài bẫy chúng, có lẽ bởi cậu nhìn thấy bản thể ngày xưa của mình trong đứa trẻ kia.

Cô bé nắm lấy tay Czes, lẽo đẽo theo bước cậu ta. Dẫu đôi mắt cô tràn ngập nỗi sợ hãi, chúng vẫn không hề mang chút nghi ngờ gì về cậu cả. Nếu thấy sự ngờ vực trong đó, có lẽ cậu đã có thể trừ khử cô tại đây, nhưng...

Mấy thứ kí ức gông cùm khốn nạn này còn định tồn tại đến bao giờ nữa?!

Dẫu thâm tâm đang căm phẫn, bàn tay cậu vẫn nắm chặt lấy tay Mary.

Khi đã bước qua toa hạng hai đầu tiên và đang tiến gần đến toa kế, cậu chợt để ý đến một tủ đồ lao công trong nhà vệ sinh.

Cậu cẩn thận mở cửa tủ. Bên trong là chổi lau và xô chứa, được sắp xếp rất gọn gàng. Nếu cậu đẩy đống chổi vào góc, không gian bên trong chắc sẽ đủ để một đứa trẻ chhui vào.

“Được rồi, Mary, vào trong đi. Cậu có thể trốn ở đây đấy, nếu cậu ở một mình.”

“N-nhưng mà... Czes, còn cậu thì sao?”

Mary nhìn cậu bằng ánh mắt đầy lo lắng.

“Tớ sẽ đi lên trên để xem xét tình hình, nên cậu cứ trốn đây đi, Mary. Bất kể chuyện gì xảy ra, cũng đừng có di chuyển. Không việc gì phải lo. Lát nữa tớ sẽ về.”

Nghe Czes nói thế, Mary gật đầu, mặc dù toàn thân đang run rẩy.

Thực lòng mà nói, một khi đã đàm phán với đám áo trắng xong, cậu có dự tính là sẽ lập tức quay lại. Tùy thuộc vào cuộc đối thoại với chúng, cậu có thể sẽ đặt cô vào nguy hiểm—thứ mà cậu coi là ơhanr bội, nên Czes muốn tránh trường hợp đó bằng mọi giá.

Khốn nạn, sao ta lại lưỡng lự chứ? Mọi người trên thế giới này đều là con mồi của ta, không gì khác cả. Chúng chỉ là gia súc không hơn. Vốn dĩ ta luôn coi chúng như vậy mà?

Bình tĩnh nào. Mày chỉ đang tiếc thương cho nó, có thế thôi. Đôi lúc con người sẽ cảm thấy tội lỗi khi giết cừu và ăn thịt chúng. Trường hợp này cũng chỉ như vậy.

Czes không hề cân nhắc rằng ngay cả đàm phán với lũ áo trắng cũng chính là một hình thức bội phản từ bản chất mà ra. Cậu hứa rằng sẽ bảo vệ Mary, nhưng lại không coi những người khác trên tàu là chuyện của mình.

Đúng thế. Để nhắc nhở bản thân rằng ta là một thực thể phi phàm, để phong ấn những kí ức khốn nạn đấy, và, trên hết, để sinh tồn—con tàu này phải trở thành vật tế cho ta.

Nở nụ cười tươi nhất có thể, cậu lặng lẽ đóng cánh cửa trước mặt cô bé.

Czes đã nặn ra nụ cười ấy, và đống cơ mặt căng cứng của cậu phải khó khăn lắm mới trở lại trạng thái ban đầu.

Dù cậu đáng lẽ đã phải quen với những nụ cười giả dối...

-----

“Thôi nào, ai đấy đổi ca với tao giùm cái đi.”

Trong buồng hành lí, một tên áo đen đang hạch sách với hai tên còn lại.

“Ê, đừng có rời vị trí như thế.”

“Ai quan tâm chứ. Làm gì có chuyện chúng cắt được đống dây kia. Với dù sao đi nữa, mô tả công việc cũng đâu yêu cầu tao trông coi con tin.”

“Đành vậy thôi chứ sao nữa. Ai bảo bọn nó chui đầu vào.”

Trên li thuyết, công việc của chúng là để mắt đến kho vũ khí của Lemures. Bọn chúng đã rảnh rỗi đến độ thừa thãi, nhưng rồi, đột nhiên, tình hình trở nên phức tạp.

Chúng nghe thấy tiếng ai đó chạy trên hành lang, nên chúng liền giơ cao súng và sẵn sàng bước ra ngoài.

Và, trước khi chúng kịp mở cửa ra, cánh cửa đã tự động bật mở.

Một tên côn đồ dị hợm đứng ngay đó, và trong lúc chúng dùng súng hăm dọa cậu ta, một cặp đôi mặc đồ trắng cũng bước tới. Không còn cách nào khác, chúng đành trói cả ba, chỉ để thấy thêm một tên sau cuối. Chúng không biết chuyện gì đang xảy ra, nhưng hiện giờ, chúng đã bắt cả đám, lấy dây trói gô lại, và quẳng vào căn buồng ở cạnh bên...

“Như này vẫn nằm trong nhiệm vụ của chúng ta. Mệnh lệnh của chúng ta là bắt giữ bất cứ ai phát hiện ra mình. Nếu mày đã hiểu rồi, thì mau quay về chỗ đi.”

“Ừ, và tao đang nói là, ai đấy đổi ca với tao cái.”

“Được rồi, được rồi. Tạm thời cứ đi xem bọn kia thế nào đã.”

Nói xong, một tên áo đen bước ra hành lang với một tên khác.

Tên còn lại gọi với theo bóng lưng hai tên kia.

“Hiểu rồi, còn tao sẽ dùng bộ đàm để báo cáo cho Goose về bọn nó.”

Tuy nhiên, đồng bọn y không trả lời.

“Ê, ít nhất cũng phải trả lời...”

Y ló đầu ra khỏi cửa và cất tiếng, rồi lập tức nhận ra tình hình có gì đó rất lạ.

Có hai người bước sang buồng kế bên, nhưng trên hành lang chỉ có một người duy nhất.

“Hửm? George đâu mất rồi?”

Tên áo đen đeo kính hỏi về gã đồng bọn mất tích, nhưng vẫn như ban nãy, không ai trả lời cả.

“Ê, có chuyện quái gì thế?!”

Gã đồng bọn ở hành lang run rẩy điên cuồng. Mãi một lúc sau, gã mới lắp bắp được thành tiếng.

“Nó... Nó biến mất rồi...”

“Hả?”

Gã run rẩy còn điên cuồng hơn; lưng gã quay về phía cửa sổ.

“Nó biến mất rồi. Tao mới, tao mới quay sang, vậy mà nó—”

“Ê! Sau lưng mày kìa!” tên áo đen đột ngột gào lên.

Một hàng cửa sổ giống hệt nhau chạy dọc khắp hành lang toa tàu. Một trong số chúng đang mở toang. Là cái nằm ngay sau tên đồng bọn.

Một cái bóng đỏ hiện diện nơi cửa sổ ấy. Nó không phải ảnh chiếu của thứ gì đó trong toa xe—bởi cánh cửa rõ ràng là đang mở.

Cái “gì đó” màu đỏ kia nhất định đang đứng bên ngoài toa tàu.

Rồi một vệt đỏ thẫm chợt vươn tới lưng đồng bọn y.

“Ơ...?”

Gã đồng bọn bên của sổ không có nổi thời gian mà quay đầu hay la hét.

Bằng một chuyển động kinh hoàng, cơ thể gã giật bắn lên không trung. Rồi gã bị hút trọn vào màn đêm, như nước bị rút cạn khỏi bồn tắm vậy.

“Hả?”

Tên áo đen đeo kính không khỏi hoang mang.

Đồng bọn mình mới ra ngoài được chưa đến ba mươi giây. Làm thế nào cả hai lại biến mất trong ba mươi giây đấy được? Không những thế, một thằng còn biến mất ngay trước mặt mình nữa. Cái quái gì thế này? Sao tao lại chẳng hiểu gì cả? Bộ tao ngu đến vậy sao?

Trong lúc y choáng váng đứng đó, một cái gì đấy màu đỏ lại xuất hiện bên khóe mắt y.

Một màu đỏ dữ dội, trôi nổi giữa bóng tối. Vừa đẹp đẽ, lại vừa khiếp đảm.

Rất chậm rãi, cái bóng đỏ thẫm biến mất sau bức tường ngoài, và rồi chỉ còn màn đêm đen tuyền lặng lẽ chảy vào trong.

Đến khi ấy, tên áo đen đeo kính cuối cùng mới hoàn hồn lại mà hét.

-----

Claire ghét tên mình.

Cậu không định thay đổi nó, nhưng là một thằng đàn ông, cậu thấy khó chịu khi bị gọi bằng một cái tên của con gái.

Cậu nghe nói là cậu được đặt tên theo ông nội mình. Đúng là cho tới nửa đầu thế kỉ mười chín, cái tên “Claire” cũng được dùng để đặt cho con trai. Tuy nhiên, ở thời đại này, nó lại là một cái tên khiến cậu bị nhầm là con gái ở bất cứ nơi đâu cậu tới.

Cậu ghét tên mình, nhưng lại không căm thù gì cha mẹ. Dù sao đi nữa, phẫn uất với người đã chết cũng chẳng có tác dụng gì.

Nếu họ còn sống, chắc cậu sẽ phàn nàn đôi chút, nhưng họ đã chết từ khi cậu bắt đầu có nhận thức rồi.

Sau đó, Claire được nuôi nấng bởi nhà Gandor, một gia đình sống ở căn hộ gần kề.

Ông già nhà Gandor là trùm của một băng đảng mafia nhỏ bé đến nỗi một ngọn gió cũng có thể đạp đổ. Trong số các băng đảng ở New York, nó chắc phải chung mâm với hạng tôm tép phục vụ cho các băng đảng thấp kém nhất.

Khi ông già nhà Gandor qua đời, Claire lại được thu nhận bởi một rạp xiếc. Cậu cho rằng khả năng dùng đầu chạm đến mông và đứng bằng một tay là gì đó rất bình thường, nhưng có vẻ nó khá thú vị trong mắt người khác. Người trong rạp xiếc có nói vài thứ về di truyền thể hình và vóc dáng, nhưng Claire hoàn toàn không quan tâm.

Nếu có vụ gì cậu không thích thì, đó là kể từ đấy, không cần biết cậu rèn luyện vất vả đến cỡ nào, mọi người xung quanh cậu cũng đều quy hết thành “năng khiếu.” Cậu cảm thấy bị sỉ nhục, như thể nỗ lực của cậu bị làm ngơ, nhưng cuối cùng, cậu cũng đành chấp nhận điều đó. Chắc thành thạo mấy trò đơn giản như này thì không được coi là “nỗ lực,” cậu đã nghĩ như thế. Do đó, cậu quyết định rằng mình sẽ đạt được thứ gì đó to lớn hơn cả cái gọi là “năng khiếu” kia.

Cuối cùng, vẫn không một ai công nhận nỗ lực của cậu hết. Đúng là cậu đã dồn gấp đôi nỗ lực so với bất cứ ai, nhưng trong mắt người thường, khả năng của cậu lại không hề giống một thứ mà “nỗ lực” có thể tác động lên.

Claire đã nghĩ rằng mình có thể gửi chỗ tiền cậu kiếm được ở rạp xiếc cho anh em nhà Gandor, những người mà cậu coi như gia đình, nhưng thế giới lại không nhân từ đến thế. Khi cậu bắt đầu có đủ tiền để dành dụm, thì ba người họ cũng bành trướng được lãnh địa đến một tầm cao mới. Trong mắt các tổ chức ngoài kia, có thể họ vẫn yếu đuối, nhưng thu nhập của họ đã vượt xa cậu rồi.

Gánh xiếc bị giải tán, và cậu bị ném ra ngoài thế giới mà tự lo liệu cho bản thân. Cuối cùng, sau hàng loạt biến cố, Claire trở thành một sát thủ chuyên nghiệp. Sát thủ tự do tuy tương đối khan hiếm, song cậu vẫn thích ứng được. Có một lí do khiến cậu dừng nghiệp diễn xiếc và dùng công việc điều phối tàu làm vỏ bọc của bản thân. Trong ngành nghề này, cậu phải di chuyển thường xuyên hơn rất nhiều so với các gánh xiếc, và cậu cũng phải tới những thành phố trọng điểm. Đối với một sát thủ tự do, không một vỏ bọc nào có thể tiện lợi hơn được nữa.

Những cái xác dưới tay cậu rất bừa bộn. Claire hoàn toàn hiểu rõ. Đó là một thói quen khó bỏ: Cho tới khi phá hủy cơ thể của mục tiêu đến một mức nào đấy, cậu không thể dừng tay được. Cậu lo rằng tim chúng vẫn còn lưu thông máu. Cậu làm vậy không phải bởi hèn nhát hay gì. Hành động của cậu được nâng đỡ bởi ý niệm rằng, nếu cậu đã tiếp nhận một hợp đồng, thì đảm bảo rằng mục tiêu đã chết hẳn là một nghĩa vụ cần thiết.

Dẫu thói quen ấy đáng ra phải là một điểm yếu, nó thực chất lại làm vang danh cậu đến khắp nơi. Bằng cách để lại những vũng máu khác lạ tại hiện trường, phương pháp giết người của cậu đã khiến không ít tổ chức phải khiếp hãi.

Đến một thời điểm nào đó, Claire đã lấy biệt danh “Vino” (dù suy cho cùng, cậu vốn luôn dùng tên giả khi làm việc), và trước cả khi kịp nhận ra, cái tên ấy đã lan tỏa tới mọi thành phố lớn. Cậu được đồn là một con quái vật khó đoán, có thể xuất hiện tại bất cứ thành phố nào, và mật danh “Vino” vang vọng khắp giới xã hội đen, lặng lẽ mà thâm trầm.

Mình là nhân viên của tuyến xe lửa xuyên lục địa, nên dĩ nhiên là mình phải xuất hiện ở mọi thành phố lớn rồi. Và cái ý tưởng gọi một thằng gầy nhẳng như mình là quái vật... Không biết bọn họ định gọi anh thứ nhà Gandor như nào đây? Ác quỷ à? Anh ta phải to gấp đôi mình ấy chứ.

Ngay lúc nhớ lại “gia đình” mà cậu sắp sửa gặp ngày mai, trái tim Claire liền dịu lại.

Mặc dù cậu đã tương đối nổi tiếng, anh em nhà Gandor vẫn chưa mời Claire gia nhập tổ chức họ. Tuy nhiên, họ cũng không hề giữ khoảng cách, và không hề có ý định ngăn cậu trở thành một sát thủ.

Hành động ấy tuy có mâu thuẫn tới nhân tính của con người, nhưng nó khiến Claire rất vui, và nếu là vì Nhà Gandor, cậu luôn ra giá rẻ hơn bình thường. Thực lòng mà nói, cậu không ngại làm không công, nhưng họ không cho phép như thế.

Và giờ cậu đang trên đường đến gặp những người đó, nhằm thực hiện nhiệm vụ họ giao. Theo những gì cậu nghe đồn, Nhà Gandor hiện đang xung đột với Nhà Runorata, một tổ chức được coi như một ông lớn, kể cả trong phạm vi New York. Cậu có lẽ sẽ không thể tiếp tục công việc điều phối trong một khoảng thời gian. Cậu đã báo với công ty đường sắt rằng sau khi tàu cập bến New York vào ngày mai, cậu sẽ xin nghỉ tầm vài ngày.

Vấn đề duy nhất là liệu con tàu này có thể an toàn cập bến New York được hay không.

Cậu không được để con tàu dừng lại.

Chúng có thể sẽ tiếp tục gặm nhấm Nhà Gandor nếu cậu không đến kịp. Đó là điều mà cậu muốn tránh bằng mọi giá.

Nếu đám áo trắng hoặc đám áo đen chiếm được tàu, khả năng nó cập bến an toàn sẽ tụt giảm không phanh. Dù cho có đến được New York đi nữa, nhiều khả năng chúng vẫn sẽ đụng độ với cảnh sát. Với lại, nếu chúng thực sự định giao chiến, con tàu chắc chắn sẽ phải hứng chịu thương vong.

Mình sẽ không buông tha con tàu này cho lũ hạ đẳng đấy. Mình sẽ không để chúng giết hành khách, và cũng không cho chúng dùng họ làm con tin.

Khi đã nghĩ đến như thế, Claire mới chợt nhận ra rằng cậu đã bỏ qua chuyện Nhà Gandor và thực tâm lo cho hành khách từ lúc nào.

Thế là sao chứ?

Cậu dò xét lại con tim.

Chắc mình cũng tương đối thích làm điều phối nhỉ.

Dưới ánh trăng, cậu mỉm cười ngượng ngùng...

…Mỉm cười ngượng ngùng trong khi bám lấy gờ tàu bằng một tay, còn tay kia giữ lấy xác của một tên áo đen gãy cổ.
Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện