Cái nóng buổi đêm cạnh tranh với ánh nắng sớm mai, đổ máu giữa không trung. Bầu trời trải rộng một màu đỏ rực phía sau quân Pars, dấy lên cảm giác đáng ngại.

Lực lượng 10 vạn quân Pars được chỉ huy một cách trật tự, một phần là nhờ có marzban Kishward, người được gọi với biệt danh tahir “song đao tướng quân”. Tuy nhiên, lý do chính lại là vua Andragoras với uy lực kinh người, áp đảo quân sĩ. Dù ông từng thẳng tay đày ải con trai mình là thái tử Arslan để chiếm quyền chỉ huy đội quân do chính chàng thành lập, nhưng đến nay vẫn chưa có ai dám lên tiếng trực tiếp phê phán hành động này, đúng như những gì “Bài ca anh hùng Kai Khosrow” viết : dưới mặt đất chỉ có một vị vua.

Andragoras đứng trước toàn quân, quan sát kẻ địch phía xa. Song đao tướng Kishward đứng phía sau ông nữa con ngựa. Áo giáp nhà vua sáng chói khi ông quay lại nhìn vị tướng.

“Liệu Narsus đang nghĩ gì? Chắc hắn sẽ muốn ta và quân Lusitania tiêu diệt lẫn nhau, tốt nhất là cả hai cùng chết. Tiếc rằng thế giới này không diễn ra theo những gì mà hắn mong đợi.”

Lời chế nhạo của vua cho thấy chẳng những ông muốn giết chết người được đề cập, mà còn muốn băm vằm anh ta thành từng mảnh. Kishward khẽ run.

“Theo thần thấy, ngài Narsus rất trung thành với thái tử điện hạ. Nhưng trung thành với thái tử chẳng phải trung thành với chính đức vua sao?”

“Trung thành?”

Andragoras cười mất tiếng nhưng khi nghe, Kishward lại có linh cảm chẳng lành.

“Ta từng tin Kharlan, kẻ phản bội ta ở trận Atropatene là người rất mực trung thành.”

“Bệ hạ….”

“Hắn trung thành với ai? Kẻ hắn thề hết lòng phò tá ấy lại là kẻ tàn phá Pars, thật nực cười.”

Kishward chẳng còn biết nói gì, đành đưa mắt nhìn rời khỏi gương mặt nhà vua, nhìn sang đội hình của quân địch.

Lúc này, trong quân Pars vẫn còn một vị marzban nữa, chính là vị tướng một mắt mà người ta hay gọi là “Kybard khoác lác.” Với 1 vạn kỵ binh chủ lực, cánh phải quân Pars nằm dưới sự chỉ huy của anh ta. Vì quân Pars tiến về phía tây nên cánh phải sẽ nằm ở vùng đông bắc của chiến trường, cách cánh trái của quân Lusitania khoảng nửa farsang, trải đều trên một vùng bình nguyên rộng lớn. Dưới ánh nắng sớm, áo giáp và khiên của quân Lusitania sáng loáng như được tôi trong máu lửa. Không có dấu vết nào của sự sợ hãi trong con mắt duy nhất của Kubard khi anh nhìn vào đội quân ấy.

“Chà, đây là kết thúc của sự khởi đầu, hay khởi đầu của sự kết thúc?”

Vị tướng một mắt nói với làn gió nóng lúc sáng sớm.

“Đạo Yadabaoth chỉ thờ một vị thần, còn Pars lại thời vô số thần thánh. Cho nên chỉ xét về số lượng thôi, quân ta đã ưu việt hơn rồi.”

Barum, chỉ huy 1000 kỵ binh đi cùng anh ta, dường như có điều muốn nói. Anh cảm thấy lời của Kubard quá bất kính với các vị thần. Nhận ra vẻ mặt của Barum, Kubard bật cười.

“Đừng có lo, đây không phải Atropatene, và không có vị vua nào lại mắc cùng một sai lầm đến hai lần.”

Giọng anh ta to và vang dội, cũng vô cùng sâu cay. Kubard mỉa mai cách hành xử của vua trong trận Atropatene khi ông ta bỏ mặc tướng sĩ đang chiến đấu quân thân mà rút lui một mình. Giữa trận chiến sinh tử, Kubard cũng từ bỏ vị chủ nhân mình theo phò từ lâu ngay khi được tin “nhà vua bỏ trốn.”

Nhắc mới nhớ, những người duy nhất có mặt và chứng kiến sự tàn khốc của trận Atropatene khi ấy chỉ có Andragoras và Kubard. Kubard tận mắt trông thấy đội kỵ binh Pars từng được xem là bất khả chiến bại ấy sụp đổ. Lần này chẳng ai đoán trước sẽ xảy a chuyện này. Tuy nhiên, người đàn ông một mắt chưa từng nghĩ mình sẽ phơi xác tại đây.

Tiếng tù và vang lên, rồi bị át bởi tiếng vó ngựa. Đội quân của nhà vua biến thành sóng, lan rộng khắp vùng bình nguyên.

Như thể đáp lại bước tiến của quân Pars, quân Lusitania cũng bắt đầu xông trận. Người và ngựa xông về phía ánh bình minh đẫm máu.

“Thời tiết hoàn toàn khác hồi trận Atropatene.”

Tướng Montferrat nói. Guiscard im lặng gật đầu. Hắn cũng nhớ đến cảnh tượng khi ấy. Còn bây giờ, bên nào chiến thắng, bên nào bại vong tại đồng bằng Shahrud này đây? Phía Pars có khoảng 10 vạn quân tham chiến, còn phía Lusitania khoảng 21 vạn quân. Quân số Lusitania lúc rời Ecbatana là 25 vạn nhưng đến tháng 7, họ đã thiệt hại mất 2 vạn 5 ngàn người, trong đó có cả tướng Baudouin. Ngoài ra có cả lính đào ngũ nữa nên lực lượng lúc này nhỏ hơn trước.

Dù vậy, quân Lusitania vẫn đông gấp đôi quân Pars, nên họ sẽ không thua trong trận đấu trực diện. Tuy nhiên, tổng chỉ huy quân đội, công tước Guiscard lại không quá tự tin về chiến thắng. Hắn không còn cách nào khác ngoài dùng đến lực lượng giám sát để củng cố thêm sức mạnh.

Người giữ nhiệm vụ chỉ huy lực lượng này là một hiệp sĩ trẻ tên Elmango, một trong hai người đã đến giải cứu Guiscard tối quan khi hắn bị một người Pars đột kích vào doanh trại tấn công. Những đồng đội của hắn đều đã bị quân Pars giết chết, mình hắn sống sót và nhận được lời khen cùng niềm vinh dự bất ngờ. Được đích thân công tước bổ nhiệm, Elmango tràn ngập lòng biết ơn, quyết chí trung thành thực thi mệnh lệnh. Nhiệm vụ của hắn là giết những người lính phe mình có ý định chạy trốn, nhưng Elmango lại không thấy điều đó có gì khủng khiếp.

Khoảng cách giữa hai quân đến gần tới mức phạm vi bắn cung. Đầu tiên là cuộc chạm trán của các mũi tên.

Trận mưa tên như đàn châu chấu hàng trăm triệu con bay vút trên không trung. Tên bay xé gió, phủ tối cả mảng trời rồi trút xuống mặt đất. Đó là một trận mưa máu màu bạc, mang đến cái chết và nỗi đau vô tận. Hai quân đều giơ khiên lên chấn, nhưng khi tên bay vào khoảng trống giữa các tấm khiên, tiếng kêu khóc rên rỉ lại vang lên.

Tên tiếp tục rơi, khoảng cách hai bên cũng thu hẹp dần. Sau khi bầu trời bị chôn vùi trong loạt tên bắn lúc nãy mở ra, các chiến binh hạ lá chắn xuống, nhìn chằm chằm về phía trước. Họ đã đủ gần để trông thấy gương mặt của nhau.

Vua Andragorss đứng đầu quân Pars, giơ cao tay, phất mạnh xuống. Guiscard cũng làm hành động tương tự ở đội hình quân Lusitania. Lúc này, trận chiến đồng bằn Shahrud đã thành cuộc giáp lá cà.

Trong 10 vạn quân Pars, nhóm tấn công kẻ thù nhanh nhất là nhóm cánh phải do Kubard chỉ huy. Kubard giương cao thanh trọng kiếm, hướng lên trời xanh, đứng trước đội hình, trong khi binh lính cầm giáo theo sau. 4 vạn vó ngựa làm rung chuyển mặt đất.

Kubard không có ý định chiến đấu vì đức vua nhưng anh mong có thể đánh đuổi người Lusitania khỏi đất Pars. Cưỡi trên lưng chiến mã và cấm kiếm xông pha trận mạc là sở thích của anh. Người đàn ông chột mắt cứ thế ngang nhiên lao vào đội hình của địch.

Cuộc giết chóc bắt đầu.

Kubard vung thanh trọng kiếm, cảm nhận những rung chấn phản lại cánh tay. Mũ giáp của hiệp sĩ Lusitania bị chém vỡ, nhãn cầu và máu mũi bắn tung tóe. Trước khi kẻ đó ngã xuống, kiếm của Kubard vẽ nênn một quỹ đạo ánh sáng, vòng ngược trở lại với tốc độ nhanh hơn, khiến cho cổ tay cầm thương của ẻ đó cũng văng lên trời. Những nhát chém sắc bén và nặng nề cắt xuyên vạn vật. Máu người bắn lên khiến bầu không khí càng thêm nóng nực. Những hiệp sĩ ngã xuống bị giẫm đạp bởi vó ngựa của cả đồng đội lẫn kẻ thù, lập tức biến thành những mảnh thịt đẫm máu. Thân hình cao lớn của Kubard bị khói che phủ, mỗi nhát kiếm của anh ta lại biến một chiến mã thành ngựa vô chủ.

Người chiến binh một mắt chẳng những xé xác quân Luistania mà còn đánh tan lòng can đảm lẫn sự thù địch của họ. Các tín đồ Yadabaoth bị nuốt chửng bởi cảm giác thất bại nặng nề, khiến đôi chân họ trở nên yếu ớt. Có vẻ như sự bảo hộ của chúa cũng chẳng có tác dụng gì trước người đàn ông này. Kubard cùng các thuộc hạ của mình áp đảo quân Lusitania, khiến phòng tuyết của chúng bắt đầu sụp đổ từ bên cánh trái.

Guiscard vẫn bình tĩnh. Hắn nhận định giờ không phải lúc đích thân ra đầu tuyến chỉ huy. Để giữ vững cánh trái sắp tan rã, công tước quyết định cử thêm tiếp viện. Lúc này, ưu thế về số lượng của quân Lusitania mới được thể hiện rõ.

3000 kỵ binh, 7000 bộ binh được tung ra cánh trái dưới sự chỉ huy của nam tước Vancaliero, người bạn lâu năm của tướng Montferrat.
Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện